Ngay cả chính sách tiền tệ siêu thắt chặt cũng không sớm làm giảm lạm phát

Ngay cả chính sách tiền tệ siêu thắt chặt cũng không sớm làm giảm lạm phát

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Liệu lạm phát có thể sớm được kiểm soát nếu như các ngân hàng trung ương lớn bắt đầu tăng lãi suất từ năm 2021. Câu trả lời cho lạm phát không đơn giản như vậy.

Vào tháng 7/2021, khi các nhà hoạch định chính sách ở Mỹ và châu Âu đều cho rằng lạm phát chỉ là nhất thời và loại bỏ nguy cơ lạm phát trở nên cố hữu, Ngân hàng Trung ương Chile đã có một động thái hoàn toàn khác.

Cũng vào tháng 7/2021, do lo ngại lạm phát sẽ tăng và ở mức cao, các nhà hoạch định chính sách Chile đã bỏ phiếu nhất trí nâng lãi suất từ ​​0,5% lên 0,75%. Kể từ đó Chile đã tăng lãi suất liên tục, vượt xa kỳ vọng của các nhà đầu tư và đưa lãi suất chính sách lên tới 11,25%. Có lẽ không có ngân hàng trung ương nào khác theo đuổi ổn định giá cả với sự cống hiến như vậy.

Nhưng kết quả chế ngự lạm phát vẫn không đạt được như mong đợi. Vào tháng 9/2022, chỉ số giá tiêu dùng của Chile đã tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái. Biện pháp ưu tiên của ngân hàng trung ương về lạm phát cơ bản đã tăng tốc lên 11% so với cùng kỳ năm ngoái.

Ví dụ của Chile nói lên một vấn đề rộng lớn hơn. Nhiều chuyên gia nói rằng, giá như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và các ngân hàng trung ương khác “đi trước đón đầu” bằng cách nhanh chóng tăng lãi suất vào năm ngoái, thế giới sẽ không phải vật lộn với lạm phát cao như hiện nay. Kinh nghiệm của Chile và những quốc gia khác trong việc thực hiện thắt chặt chính sách tiền tệ sớm và quyết liệt đã làm dấy lên nghi ngờ về lập luận đó. Trên toàn thế giới, lạm phát đang chứng tỏ là chúng cực kỳ khó khăn để đưa vào tầm kiểm soát.

Lãi suất chính sách của Brazil, Chile, Hungary, New Zealand, Na Uy, Hàn Quốc, Peru và Ba Lan

Lãi suất chính sách của Brazil, Chile, Hungary, New Zealand, Na Uy, Hàn Quốc, Peru và Ba Lan

The Economist đã thu thập dữ liệu về Chile và bảy quốc gia khác, trong đó các ngân hàng trung ương đã bắt đầu chu kỳ thắt chặt ít nhất một năm trước sau khi giảm lãi suất xuống mức thấp kỷ lục ngay từ những ngày đầu của đại dịch Covid-19. Các quốc gia này bao gồm Brazil, Hungary, New Zealand, Na Uy, Hàn Quốc, Peru và Ba Lan. Mặc dù Nga có thể đủ điều kiện nhưng The Economist đã loại trừ Nga ra vì hoàn cảnh của nước này là riêng biệt.

The Economist gọi nhóm các nền kinh tế này là Hikelandia. Từ đầu năm tới nay, các nền kinh tế Hikelandia đã tăng lãi suất trung bình khoảng 6%. Nếu như Fed tăng lãi suất thêm 75 điểm cơ bản vào ngày 2/11 như kỳ vọng, thì mức tăng tích lũy của Mỹ trong năm qua sẽ không lớn bằng Hikelandia.

Không có gì ngạc nhiên khi việc xoay trục chính sách tiền tệ đã khiến nền kinh tế Hikelandia chậm lại. Thị trường bất động sản trở nên gặp khó khăn khi lãi suất thế chấp tăng lên. Giá nhà đang giảm ở New Zealand. Giai đoạn bùng nổ bất động sản trong đại dịch của Hàn Quốc đã kết thúc. Dựa trên chỉ báo sức mạnh kinh tế của Goldman Sachs, The Economist thấy rằng nền kinh tế của Hikelandia đang suy yếu so với mức trung bình toàn cầu. Và có điều tồi tệ hơn sẽ đến. Ngân hàng Trung ương Chile hiện dự kiến ​​tăng trưởng GDP nước này sẽ giảm trong năm tới.

Tuy nhiên, lạm phát vẫn đang khá dai dẳng. Các ngân hàng trung ương thường tập trung vào tỷ lệ lạm phát lõi (loại trừ giá năng lượng và thực phẩm) vì chúng phản ánh tốt hơn áp lực lạm phát trong nước. Vào tháng 9/2022, lạm phát lõi các nền kinh tế Hikelandia đạt 9,5% so với cùng kỳ năm trước, tăng 3,5% theo số tuyệt đối so với tháng 3. Tệ hơn nữa, khoảng cách giữa lạm phát lõi toàn cầu và Hikelandia dường như đang rộng ra chứ không hề thu hẹp lại.

Đi sâu vào các số liệu thống kê quốc gia Hikelandia, các xu hướng càng trở nên đáng lo ngại hơn. Tăng trưởng tiền lương của Chile tiếp tục tăng nhanh. Vào tháng 9/2022, tỷ lệ lạm phát của Hàn Quốc trong lĩnh vực dịch vụ sử dụng nhiều lao động là 4,2% so với cùng kỳ năm ngoái, là mức cao nhất kể từ đầu những năm 2000. Trong sáu tháng qua, lạm phát trong lĩnh vực dịch vụ của Hungary đã tăng từ 7,2% lên 11,5%. Lạm phát đang trở nên “phân tán” hơn ở Hikelandia và ảnh hưởng đến nhiều loại hàng hóa và dịch vụ hơn. Trong nghiên cứu về Ba Lan được công bố vào cuối tháng 9, các nhà kinh tế tại Goldman Sachs đã tìm thấy bằng chứng cho thấy “đà lạm phát cơ bản đã tăng trở lại”.

Cuộc chiến chống lạm phát của Hikelandia nêu lên ba khả năng.

Thứ nhất là việc kỳ vọng lạm phát giảm là không thực tế ở hiện tại. Nghiên cứu cho thấy rằng có những khoảng cách giữa chính sách tiền tệ thắt chặt hơn và lạm phát thấp hơn. Việc kiểm soát lạm phát cũng rất khó khi hầu hết mọi đồng tiền đều giảm giá so với đồng đô la, khiến hàng nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn. Tất cả điều này có thể đúng. Nhưng, sau khi hết lần này đến lần khác ngạc nhiên vì lạm phát, nhiều người sẽ dũng cảm đặt cược rằng lạm phát của Hikelandia sẽ sớm gần với mục tiêu của các ngân hàng trung ương ngay cả khi các điều kiện chỉ mới bắt đầu được cải thiện.

Khả năng thứ hai là các nhà hoạch định chính sách, bao gồm cả những nhà hoạch định chính sách ở Hikelandia đã không đủ can đảm. Có lẽ các ngân hàng trung ương nên tăng lãi suất mạnh mẽ hơn. Đây là lập luận của những nhà kinh tế học theo chủ nghĩa tự do của Chile, những người đã dẫn đầu công cuộc cải cách thị trường tự do của đất nước trong những năm 1970.

Các chính phủ cũng có thể làm nhiều hơn nữa để hỗ trợ nền kinh tế. Sau khi đẩy mạnh chi tiêu khi đại dịch xuất hiện, thâm hụt ngân sách trung bình ở Hikelandia đã giảm xuống, nhưng vẫn ở mức 3% GDP. Việc tăng thuế hoặc cắt giảm chi tiêu công sẽ giúp giảm nhu cầu. Tuy nhiên, chiến lược này cũng có rủi ro. Thực hiện thắt lưng buộc bụng trong thời kỳ khủng hoảng chi phí sinh hoạt sẽ không được ưa chuộng nhiều.

Điều đó dẫn đến khả năng thứ ba và là khả năng đáng lo ngại nhất. Có lẽ lạm phát đơn giản là khó ngăn chặn hơn bất kỳ ai có thể dự đoán một năm trước. Trong một báo cáo được công bố vào mùa Hè, Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) đã gợi ý về khả năng này. Trong một “chế độ lạm phát thấp” như tiêu chuẩn trước đại dịch, không ai quan tâm nhiều đến giá cả và đều đảm bảo chúng không tăng nhanh. Nhưng trong một “chế độ lạm phát cao”, chẳng hạn như trong những năm 1970, các hộ gia đình và doanh nghiệp bắt đầu theo dõi lạm phát chặt chẽ làm dẫn đến “những thay đổi hành vi có thể dẫn đến nó”. Nếu thế giới đã chuyển từ chuẩn mực này sang chuẩn mực khác, thì sẽ cần nhiều công cụ sáng tạo hơn để hạ nhiệt giá cả.

Tin bài liên quan