Những trở ngại ở "chặng cuối" của các ngân hàng trung ương bị ẩn đi bởi lạm phát sụt giảm

Những trở ngại ở "chặng cuối" của các ngân hàng trung ương bị ẩn đi bởi lạm phát sụt giảm

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Sự suy giảm mạnh của lạm phát ở các nền kinh tế phát triển đã tạo ra sự bất đồng giữa thị trường và ngân hàng trung ương về việc khi nào lãi suất sẽ giảm xuống.

Một bên là các ngân hàng trung ương cảnh báo còn quá sớm để ăn mừng chiến thắng trong cuộc chiến ổn định giá cả, trong khi các nhà đầu tư đã đặt cược vào việc lãi suất sẽ sớm được cắt giảm như thế nào.

Diễn biến lạm phát sẽ rất quan trọng trong việc xác định bên nào được chứng minh là đúng. Một số yếu tố như giá năng lượng đi ngang và tiền lương tăng trưởng mạnh đang có nguy cơ trì hoãn sứ mệnh của các nhà hoạch định chính sách trong việc hoàn thành “chặng cuối” nhằm đưa lạm phát xuống mục tiêu 2%.

Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Đức Joachim Nagel tuần này đã cảnh báo về “con đường gập ghềnh phía trước, với lạm phát thăng trầm trong thời gian tới”.

Các nhà đầu tư đang kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) sẽ có đợt cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản đầu tiên vào tháng 6/2024, sau đó là hai hoặc ba lần cắt giảm nữa trong thời gian còn lại của năm 2024. Ngân hàng trung ương Anh (BoE) dự kiến sẽ hành động muộn hơn khi giảm lãi suất lần đầu tiên vào tháng 8, với một hoặc hai đợt cắt giảm tiếp theo trước cuối năm.

Những kỳ vọng đó được đo lường bằng xu hướng giá trên thị trường hoán đổi, đã xuất hiện bất chấp những cảnh báo liên tục của những nhà hoạch định chính sách rằng lãi suất sẽ vẫn ở mức cao trong suốt năm tới.

Chủ tịch ECB Christine Lagarde cho biết tuần trước rằng, còn quá sớm để “bắt đầu tuyên bố chiến thắng” trước lạm phát, đồng thời cảnh báo lạm phát sẽ tăng tốc trở lại “trong những tháng tới” khi các lực giảm phát gần đây mờ dần.

Các thống đốc ngân hàng trung ương khác cũng đã đưa ra những quan điểm để làm giảm sự nhiệt tình đối với việc làm chậm lạm phát và bác bỏ các câu hỏi về thời điểm họ sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất.

Consensus Economics dự báo lạm phát trong năm tới ở một số nền kinh tế lớn
Consensus Economics dự báo lạm phát trong năm tới ở một số nền kinh tế lớn

Chủ tịch Fed Jerome Powell cho biết trong tháng này rằng, Fed sẽ không bị “đánh lừa” bởi dữ liệu giá đáng khích lệ trong vài tháng, đồng thời chỉ ra rằng "lạm phát đã khiến chúng ta phải nhận một vài tin giả" trong quá khứ.

Hôm thứ Ba (28/11), Christopher Waller - một trong những nhà hoạch định chính sách diều hâu nhất của Fed - đã báo hiệu rằng lãi suất khó có thể tăng thêm và có thể cắt giảm nếu lạm phát tiếp tục chậm lại, nhưng quan điểm của ông về khả năng cắt giảm lãi suất vẫn khá tách biệt giữa các nhà hoạch định chính sách.

Dữ liệu lạm phát hàng năm của Mỹ đã giảm xuống 3,2% trong tháng 10, sau khi tăng tốc kể từ tháng 6. Tuy nhiên, theo Consensus Economics, lạm phát dự kiến sẽ duy trì ở mức trên 3% cho đến tháng 1/2024 và giảm xuống chỉ còn 2,4% vào cuối năm 2024.

Lạm phát ở Anh đạt 4,6% trong tháng 10, giảm so với mức đỉnh 11,1% một năm trước, nhưng BoE dự đoán lạm phát sẽ chỉ giảm xuống 3% vào cuối năm 2024 và phải mất thêm một năm nữa để đạt mức 2%.

Quá trình đưa lạm phát về mục tiêu vẫn khó khăn

Một số yếu tố có thể khiến các nền kinh tế tiên tiến gặp khó khăn trong việc đưa lạm phát xuống mức quan trọng 2%.

Một là sự điều chỉnh giảm mạnh của giá năng lượng so với mức tăng vọt một năm trước sau khi xung đột Nga-Ukraine diễn ra. Giá năng lượng tiêu dùng giảm hàng năm đã đóng một vai trò lớn trong việc kéo tỷ lệ lạm phát xuống. Tại Mỹ, giá năng lượng trong tháng 10 đã giảm 4,5% so với cùng kỳ năm ngoái; tại khu vực đồng euro, giá năng lượng đã giảm 11,2%.

Nhưng tác động này dự kiến sẽ giảm dần khi lạm phát năng lượng hàng năm giảm dần và thậm chí có thể chuyển biến tích cực trở lại. Giá thực phẩm cũng đã chậm lại trong vài tháng. Lạm phát thực phẩm tại khu vực đồng tiền chung châu Âu đạt đỉnh 17,9% trong tháng 3 và dự kiến sẽ giảm xuống dưới 7% trong tháng 11.

Samy Chaar, nhà kinh tế trưởng tại Lombard Odier cho biết, tốc độ lạm phát chậm lại “nhanh chóng do các tác động cơ bản, nhưng những gì xảy ra tiếp theo chắc chắn sẽ diễn ra chậm hơn”. Ông cho biết, đây là “câu chuyện tương tự ở khắp mọi nơi”, ngay cả khi tình trạng giảm lạm phát bắt đầu sớm hơn ở một số nước mới nổi và sau đó xuất hiện ở Mỹ, tiếp theo là châu Âu.

Một yếu tố quan trọng khác mà các ngân hàng trung ương đã xác định có khả năng khiến lạm phát tăng cao là tiền lương tăng nhanh, đẩy chi phí lên cao đối với các công ty dịch vụ sử dụng nhiều lao động và chuyển nó sang giá cao hơn cho khách hàng.

Do tiền lương tăng, lạm phát dịch vụ trong tháng 10 là 4,6% ở khu vực đồng euro, 5,1% ở Mỹ và 6,6% ở Anh. BoE dự kiến lạm phát dịch vụ sẽ duy trì ở mức trên 6% cho đến mùa xuân năm 2024. “Dịch vụ là một phần sử dụng rất nhiều lao động của nền kinh tế và sẽ mất nhiều thời gian hơn để giảm xuống”, phó thống đốc BoE Dave Ramsden vào tuần trước.

Các nhà kinh tế của JPMorgan tuần trước dự báo lạm phát cơ bản sẽ duy trì ở mức khoảng 3% trong nền kinh tế toàn cầu trong suốt năm tới “phần lớn là do áp lực tiếp tục tăng lên về chi phí lao động và giá dịch vụ”.

Ngoài ra, việc chính phủ rút lại các biện pháp hỗ trợ nhằm bảo vệ người tiêu dùng và doanh nghiệp khỏi tác động của đại dịch và khủng hoảng năng lượng cũng góp phần khiến lạm phát tăng trở lại.

Pháp đã giảm trợ cấp giá điện trong những tháng gần đây, điều này đã khiến lạm phát năng lượng tăng cao. Đức vào tháng 1 sẽ đảo ngược việc giảm thuế giá trị gia tăng đối với các nhà hàng từ 21% xuống 7% đã được áp dụng kể từ đại dịch. Theo Tomasz Wieladek, nhà kinh tế trưởng châu Âu của T Rowe Price group, thuế cao hơn sẽ làm tăng thêm 0,6 điểm phần trăm vào lạm phát chung của Đức.

Trong khi chặng cuối cùng có thể là quãng đường chậm nhất đối với những người ấn định lãi suất và nhà đầu tư, lãi suất cơ bản giảm có nghĩa là các hộ gia đình sẽ cảm thấy khá hơn khi tiền lương cuối cùng cũng bắt kịp với sự gia tăng của chi phí.

Tin bài liên quan