Sau 25 năm của cuộc khủng hoảng tài chính, Covid-19 và cú sốc lạm phát gây thách thức cho châu Á

Sau 25 năm của cuộc khủng hoảng tài chính, Covid-19 và cú sốc lạm phát gây thách thức cho châu Á

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Cách đây 25 năm, tháng 7 đã đánh dấu sự khởi đầu của sự hỗn loạn về kinh tế, chính trị và thị trường tài chính mà sau này được gọi là Khủng hoảng tài chính châu Á. Tiền tệ và thị trường chứng khoán sụt giảm, chính trị bất ổn và tỷ lệ đói nghèo tăng vọt.

Vào ngày 2/7/1997, đồng baht đã lao dốc mạnh do Thái Lan từ bỏ việc tỷ giá neo với đồng đô la sau khi bị ảnh hưởng bởi việc bán khống.

Đây cũng là thời điểm đánh dấu sự khởi đầu của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, kéo theo khủng hoảng của khu vực từ Indonesia đến Hàn Quốc, khiến Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) phải thực hiện các biện pháp giải cứu.

Sau 25 năm, khu vực châu Á lại phải đối mặt với những thách thức mới. Với việc các nền kinh tế trên toàn thế giới vẫn đang chật vật hồi phục khi đại dịch Covid-19 lắng xuống, xung đột ở Ukraine đã khiến giá lương thực và năng lượng tăng vọt.

Trong khi đó, việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) chuyển sang chính sách thắt chặt tiền tệ khiến dòng vốn bị rút ra khỏi châu Á. Nhiều đồng tiền trong khu vực cũng đang giảm giá so với đồng đô la, điều này làm tăng chi phí của các khoản nợ bằng đô la.

Hầu hết các quốc gia châu Á đã trở nên bền bỉ hơn trước các cuộc khủng hoảng tài chính trong 25 năm qua, một phần nhờ vào quá trình công nghiệp hóa. Các quốc gia đã giàu hơn và có hệ thống tài chính mạnh hơn. Nhiều công ty toàn cầu đang đầu tư vào khu vực này để khai thác thị trường lao động chi phí thấp hơn và dân số trung lưu ngày càng tăng. Nền kinh tế Trung Quốc đã vượt lên dẫn trước và quá trình số hóa đã tiếp thêm động lực cho khu vực.

Trong khi đó, các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á không còn cố định tiền tệ của họ với đồng bạc xanh, và nhiều nền kinh tế có thặng dư tài khoản vãng lai, nhiều nước có dự trữ ngoại hối lành mạnh, không giống như Thái Lan vào năm 1997 đã cạn kiệt tiền mặt để giữ giá đồng baht.

Ngoài ra, các hiệp định khuôn khổ đa phương và song phương trong khu vực cũng cung cấp bước đệm hỗ trợ. Các thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đã phát động Sáng kiến ​​Chiang Mai vào năm 2000, một thỏa thuận hoán đổi tiền tệ cho phép các bên ký kết vay đô la của nhau. Bên cạnh nhiều thỏa thuận hoán đổi song phương, 13 quốc gia cũng đã thành lập Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Vĩ mô ASEAN + 3 (AMRO), một đơn vị giám sát kinh tế vĩ mô khu vực thuộc Sáng kiến ​​Chiang Mai.

Koji Sako, phó giáo sư tại Đại học Quốc tế Josai của Nhật Bản chỉ ra rằng, mặc dù sự phụ thuộc tổng thể của khu vực vào đồng đô la không giảm trong 25 năm qua, nhưng khả năng phục hồi của khu vực đã được cải thiện rất nhiều.

"Các quốc gia như Thái Lan, Malaysia và Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể về mặt công nghiệp hóa trong 25 năm qua, không chỉ do nền kinh tế định hướng xuất khẩu của họ theo hệ thống thương mại tự do, mà còn được hưởng lợi từ sức mạnh đang trỗi dậy của Trung Quốc", ông cho biết.

Tuy nhiên, tình trạng hỗn loạn toàn cầu ngày nay đang thử thách sự ổn định của châu Á hơn bao giờ hết và các dấu hiệu về rủi ro đang gia tăng lên.

Theo cơ sở dữ liệu của IMF, gánh nặng nợ chính phủ đã tăng lên ở nhiều nước châu Á trong đại dịch Covid-19. Ví dụ ở Philippines, tỷ lệ nợ công trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã tăng từ 37% vào năm 2019 lên 57,5% vào năm 2021.

Tỷ lệ nợ công trên GDP của một số quốc gia châu Á.

Tỷ lệ nợ công trên GDP của một số quốc gia châu Á.

Các nền kinh tế nhỏ hơn dựa vào du lịch có xu hướng có tỷ lệ nợ công cao hơn. Nợ công của Maldives tăng từ 78,8% GDP vào năm 2019 lên ước tính 123,4% vào năm 2021, trong khi của Sri Lanka tăng từ 86,8% lên ước tính 107,2% so với cùng kỳ.

Sri Lanka hiện đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị do lạm phát tăng cao. IMF tháng trước đã cử một nhóm tới nước này để thảo luận về một gói giải cứu nhưng hiện vẫn chưa có gói giải cứu nào được thông qua.

Ngoài nợ do Covid gây ra, nhiều quốc gia đang cố gắng làm dịu bớt gánh nặng của lạm phát. AMRO đã chỉ ra trong báo cáo gần đây về "Giải quyết nợ công và nợ tư nhân cao tích tụ trong đại dịch Covid-19" là một trong những vấn đề quan trọng của khu vực.

“Khi các nền kinh tế thoát khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay, cả nợ công và nợ tư nhân dự kiến ​​sẽ tăng lên đáng kể. Quản lý kinh tế vĩ mô sẽ rất khó khăn, đặc biệt là nếu áp lực lạm phát xuất hiện trong bối cảnh khu vực công và tư nhân mắc nợ nhiều và hệ thống tài chính suy yếu”, báo cáo cho biết.

Trong khi đó, Fed vào tháng 6 đã nâng lãi suất chuẩn thêm 75 điểm cơ bản, mức tăng mạnh nhất trong 27 năm. Động thái đó đã khiến dòng vốn chảy ra ở các nền kinh tế châu Á và gánh nặng nợ bằng đồng đô la sẽ tăng lên ở một số nơi.

Một số ngân hàng trung ương châu Á cũng đã chuyển sang chế độ thắt chặt. Tuy nhiên, việc thắt chặt nhanh chóng bằng cách làm cho tín dụng trở nên đắt đỏ hơn sẽ có nguy cơ bóp nghẹt một số công ty phát triển nhanh nhất trong khu vực, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ.

Theo phó giáo sư Sako, việc thay đổi môi trường kinh doanh cũng có thể là một thách thức. Sự cạnh tranh ngày càng tăng giữa Mỹ và Trung Quốc có thể phá vỡ các liên kết kinh tế trong khu vực Đông Nam Á và ảnh hưởng đến thương mại trong toàn khu vực. Trong một động thái chiến lược gần đây, Mỹ đã khởi động Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ - Thái Bình Dương (IPEF) với 13 quốc gia. Nhưng ba nước ASEAN - Campuchia, Lào và Myanmar - không tham gia vào.

Sự tập trung toàn cầu nhiều hơn vào các vấn đề nhân quyền cũng có thể ảnh hưởng đến xuất khẩu của một số nền kinh tế châu Á. "Cách tiếp cận thông thường nhằm thúc đẩy ngày càng nhiều xuất khẩu trong bối cảnh thương mại tự do có thể bị hạn chế nhiều hơn trong tương lai", phó giáo sư Sako cho biết.

Chuyên gia kinh tế trưởng của AMRO cho biết, trong khi các nền kinh tế châu Á dự kiến sẽ tiếp tục phát triển, khu vực này nên tiếp tục nỗ lực để tăng cường khả năng phục hồi tài khóa của mình.

"Chúng ta không thể được chuẩn bị quá mức mà phải tiếp tục xây dựng khả năng phục hồi. Các cú sốc luôn luôn khác nhau, nhưng nếu các quốc gia mạnh mẽ, ít nhất họ có thể chịu được cú sốc”, Hoe Ee Khor, chuyên gia kinh tế trưởng của AMRO cho biết.

Tin bài liên quan