Tái cơ cấu DNNN, cần gỡ 6 điểm nghẽn cổ phần hóa

Tái cơ cấu DNNN, cần gỡ 6 điểm nghẽn cổ phần hóa

(ĐTCK) Khi những điểm nghẽn chính sách được khắc phục, cộng với nền tảng kinh tế vĩ mô dần ổn định hơn, kế hoạch cổ phần hóa DNNN sẽ khả thi hơn.

Để thực hiện thành công Đề án “Tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011 - 2015” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, một trong những giải pháp quan trọng là đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá khối DN này.

Tái cơ cấu DNNN, cần gỡ 6 điểm nghẽn cổ phần hóa ảnh 1

Tập đoàn Sông Đà là một trong những đơn vị sớm có Đề án "Tái cơ cấu" trình cơ quan quản lý

Trải qua tròn 20 năm triển khai lộ trình cổ phần hóa DNNN, sau 7 nghị định của Chính phủ về vấn đề này, Nghị định 59/2011/NĐ-CP hiện nay đã khắc phục cơ bản các bất cập trong công tác cổ phần hoá giai đoạn trước như: việc mở rộng phương thức bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược, đặc biệt là việc thu hút các nhà đầu tư chiến lược mua cổ phần tham gia tái cơ cấu lại DN; hướng dẫn cụ thể việc xác định giá đất trong giá trị DN theo quy định của pháp luật đất đai; bổ sung chế độ ưu đãi cho người lao động, để tạo sự gắn bó chặt chẽ giữa người lao động và DN; bổ sung một số quy định tăng cường giám sát, chống thất thoát tài sản nhà nước...

Tuy nhiên, nhiệm vụ tổ chức thực hiện các phương án sắp xếp đã được Thủ tướng phê duyệt trong giai đoạn 2011 - 2015 (trong 1.309 DN 100% vốn nhà nước hiện tại, sẽ phải cổ phần hoá 573 DN, trong đó có các công ty mẹ của 1 tập đoàn, 5 tổng công ty 91, 51 tổng công ty 90...), trong bối cảnh thị trường tài chính và TTCK trong nước còn suy trầm là rất nặng nề. Để có thể đi đến đích thì cần khẩn trương rà soát, sửa đổi cơ chế cổ phần hoá.

Thứ nhất, rà soát điều chỉnh lại một số cơ chế tài chính về đất đai trong quá trình cổ phần hoá. Nghị định 59 quy định, DN cổ phần hoá có trách nhiệm rà soát, xây dựng và gửi phương án sử dụng đất đến UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên địa bàn trước khi thực hiện xác định giá trị DN. DN được lựa chọn hình thức thuê đất hoặc giao đất theo quy định của Luật Đất đai và trong thời hạn 30 ngày, các địa phương phải có ý kiến chính thức đối với lô đất DN tiếp tục sử dụng sau cổ phần hoá, giá đất để xác định giá trị đất trong giá trị DN và hoàn tất các thủ tục liên quan đến đất đai trước khi chính thức chuyển sang CTCP.

Tuy nhiên, qua theo dõi thì hầu hết các địa phương đều không đưa ra ý kiến đối với phương án sử dụng đất của DN cổ phần hoá đúng thời hạn. Để tháo gỡ vướng mắc này, cần yêu cầu các bộ, địa phương, tập đoàn phải công bố công khai lộ trình và danh sách các DN thực hiện cổ phần hoá hàng năm, làm cơ sở cho các cơ quan xây dựng lộ trình triển khai phê duyệt phương án sắp xếp nhà đất theo quy định. Đồng thời, nghiên cứu đưa ra quy định chỉ áp dụng hình thức thuê đất đối với các DN cổ phần hoá, ngoại trừ các DN kinh doanh hạ tầng, bất động sản, vì quyền của chủ sở hữu nhà nước theo quy định của Luật Đất đai là có thể quyết định giao hoặc cho thuê đất đối với các tổ chức, cá nhân.

Bên cạnh đó, việc đánh giá lại tài sản cố định là hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp đã cho thuê, đã thu tiền thuê ngay một lần cho toàn bộ thời gian của dự án khi cổ phần hoá (như trường hợp của Tổng công ty Viglacera - Bộ Xây dựng) cũng cần được nghiên cứu, hướng dẫn. Theo quy định hiện hành, hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp do DN đầu tư, được xác định là tài sản của DN thì phải thực hiện xác định lại giá trị khi cổ phần hoá. Tuy nhiên, theo báo cáo của Viglacera, đơn giá cho thuê hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp đã bao gồm cả chi phí đầu tư hạ tầng kỹ thuật, trong khi đơn giá cho thuê theo hợp đồng đã cố định và đã thu tiền một lần cho cả thời gian thuê. Do đó, đối với hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp (tương ứng với diện tích đất) đã cho thuê, nếu xác định lại giá trị khi cổ phần hoá thì DN có thể phát sinh lỗ trong trường hợp giá trị xác định lại tăng so với giá sổ sách và phải phân bổ thêm chi phí khấu hao tài sản. Để giải quyết thì cần xem xét điều chỉnh theo hướng quy định rõ, trường hợp các DN kinh doanh bất động sản thực hiện cổ phần hoá có tài sản cố định là hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp đã cho thuê, đã thu tiền thuê ngay một lần cho toàn bộ thời gian của dự án sẽ không phải tổ chức định giá lại.

Thứ hai, quy định Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán lại kết quả định giá và xử lý các vấn đề về tài chính trước khi công bố giá trị DN đối với 4 nhóm đối tượng: tập đoàn kinh tế; tổng công ty nhà nước; DN quy mô lớn có vốn nhà nước trên 500 tỷ đồng hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề đặc thù và các DN theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ...

Quy định này nhằm tránh thất thoát vốn nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế, khối lượng công việc của Kiểm toán Nhà nước hàng năm là rất lớn, thời gian để thực hiện kiểm toán các đối tượng cổ phần hoá cũng không phải là ngắn, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tiến độ cổ phần hoá. Để tháo gỡ, có thể xem xét chỉ thực hiện kiểm toán lại đối với 2 đối tượng gồm: (i) các công ty mẹ của tập đoàn kinh tế; và (ii) các công ty mẹ của tổng công ty nhà nước, vì giá trị DN sau khi được cơ quan có thẩm quyền công bố là cơ sở để xác định quy mô vốn điều lệ, cơ cấu cổ phần phát hành lần đầu và giá khởi điểm để thực hiện đấu giá bán cổ phần. Như vậy, giá trị thực tế của DN sẽ được phản ánh thông qua việc đấu giá cổ phần công khai trên TTCK hoặc qua các tổ chức tài chính trung gian.

Đồng thời, cần quy định rõ trách nhiệm của các bộ, địa phương, tập đoàn trong việc công bố công khai lộ trình và danh sách các DN thực hiện cổ phần hoá hàng năm để Kiểm toán Nhà nước có cơ sở xây dựng lộ trình, kế hoạch triển khai kiểm toán theo quy định. Đối với việc thẩm định giá tài sản của các DN cổ phần hoá thì tổ chức tư vấn định giá phải chịu trách nhiệm, cơ quan Kiểm toán Nhà nước căn cứ kết quả thẩm định này để đưa ra ý kiến, chứ không tổ chức thực hiện thẩm định lại.

Thứ ba, cơ chế cổ phần hoá trước Nghị định 59 đã yêu cầu DN có trách nhiệm đối chiếu, xác nhận, thu hồi các khoản nợ phải thu, phải trả khi xác định giá trị DN cổ phần hóa. Tuy nhiên, qua báo cáo của Thanh tra Chính phủ liên quan đến quá trình cổ phần hoá cho thấy, nhiều DN không tổ chức đối chiếu đầy đủ các khoản công nợ dẫn đến phản ánh không đúng giá trị DN và ảnh hưởng tới việc bàn giao sang CTCP mới. Do đó, Nghị định 59 đã bổ sung quy định yêu cầu DN cổ phần hoá phải tiến hành đối chiếu toàn bộ khoản công nợ đến thời điểm xác định giá trị DN và có biện pháp xử lý dứt điểm các khoản công nợ không có khả năng thu hồi.

Trong quá trình triển khai đã có ý kiến đề xuất bỏ quy định này vì khó triển khai, mất thời gian, nhất là các DN trong lĩnh vực giao thông, xây dựng. Tuy nhiên, theo chúng tôi, vẫn cần yêu cầu DN cổ phần hoá thực hiện đối chiếu toàn bộ các khoản công nợ phải thu, phải trả đến thời điểm xác định giá trị DN để phản ánh đầy đủ, đúng toàn bộ giá trị DN. Trong một số trường hợp đặc thù, sẽ xem xét cho xử lý theo hướng:

- Đến thời điểm xác định giá trị DN, có thể chấp thuận một số khoản công nợ chưa được đối chiếu, xác nhận, nhưng ban lãnh đạo DN cổ phần hóa phải giải trình rõ các nội dung này, tập hợp hồ sơ tại DN và công bố công khai trong quyết định phê duyệt giá trị DN cũng như phương án cổ phần hoá làm cơ sở bán đấu giá cổ phần.

- Đến thời điểm đăng ký DN chuyển sang CTCP, khi lập báo cáo tài chính tại thời điểm này, nếu các khoản công nợ chưa được đối chiếu, xác nhận tại thời điểm định giá mà vẫn còn số dư thì: (i) đối với nợ phải trả nếu chưa được đối chiếu thì xác định không có đối tượng trả và xác định tăng vốn nhà nước tương ứng; (ii) đối với nợ phải thu, yêu cầu ban lãnh đạo CTCP mới có trách nhiệm kế thừa để chuyển giao và tổ chức thu hồi.

Thứ tư, nhiều DN thực hiện cổ phần hóa đề nghị điều chỉnh lại quy định tổ chức đấu thầu chọn tổ chức tư vấn định giá, vì mất nhiều thời gian. Rõ ràng, vẫn cần thực hiện đúng quy định của pháp luật về đấu thầu khi lựa chọn nhà thầu tư vấn. Tuy nhiên, Chính phủ có thể cho phép điều chỉnh thẩm quyền quyết định lựa chọn tư vấn là ban chỉ đạo cổ phần hoá DN (khoản 3 Điều 22 Nghị định 59 quy định, cơ quan có thẩm quyền quyết định phương án cổ phần hóa mới được quyền lựa chọn tổ chức tư vấn xác định giá trị DN) và đối với các DN quy mô nhỏ, giá trị hợp đồng tư vấn thấp dưới 500 triệu đồng (áp dụng khoản 1.đ Điều 20 Luật Đấu thầu năm 2005) sẽ cho phép áp dụng hình thức chỉ định thầu.

Thứ năm, rà soát điều chỉnh các quy định ràng buộc đối với nhà đầu tư chiến lược theo hướng thực hiện phân cấp cho ban chỉ đạo cổ phần hoá xem xét, quyết định cụ thể đối với từng DN cổ phần hoá và được thực hiện thông qua các hợp đồng, mà không nên quy định cụ thể trong Nghị định các nội dung này để giúp DN linh hoạt lựa chọn được đối tác chiến lược, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang trầm lắng hiện nay.

Cuối cùng, cần bổ sung chính sách bán cổ phần ưu đãi cho người lao động tiếp tục cam kết làm việc cho DN sau chuyển đổi theo hướng tăng số lượng cổ phần được mua lên tuỳ theo nhu cầu và khả năng tài chính của họ, không phân biệt trình độ lao động.

Khi những điểm nghẽn chính sách được khắc phục, cộng với nền tảng kinh tế vĩ mô dần ổn định hơn, kế hoạch cổ phần hóa DNNN sẽ khả thi hơn và trở thành một động lực quan trọng trong Đề án tái cơ cấu DNNN giai đoạn 2011 - 2015.