Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 11-18/2: Đi ngược thị trường, giá dầu và vàng cùng giảm

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Kết thúc tuần giao dịch từ 11-18/2, trong khi đa phần các loại hàng hóa như nhôm, sắt thép, nông sản hay nguyên liệu tăng giá, thì giá dầu và vàng lại đi ngược thị trường với mức giảm khá mạnh.
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 11-18/2: Đi ngược thị trường, giá dầu và vàng cùng giảm

Năng lượng: Giá dầu giảm khoảng 4%

Giá dầu thế giới giảm trong tuần qua do tâm lý lo ngại các đợt tăng lãi suất trong tương lai của Mỹ có thể ảnh hưởng đến nhu cầu.

Cụ thể, kết thúc phiên giao dịch cuối tuần qua 17/2, dầu thô Brent giảm 2,14 USD (-2,5%) xuống 83 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) giảm 2,15 USD (-2,7%) xuống 76,34 USD. Tính chung cả tuần, cả 2 loại dầu giảm lần lượt 3,9% và 4,2%.

Nhiều dấu hiệu về nguồn cung dồi dào đã gây áp lực lên thị trường.

Các nhà sản xuất dầu của Nga kỳ vọng duy trì khối lượng xuất khẩu dầu thô hiện tại, mặc dù kế hoạch cắt giảm sản lượng dầu của chính phủ nước này vào tháng 3/2022, tờ báo Vedomosti cho biết hôm 17/2.

Báo cáo mới nhất về nguồn cung của Mỹ, được công bố ngày 15/2, cho thấy tồn kho dầu thô trong tuần tính đến ngày 10/2 tăng 16,3 triệu thùng lên 471,4 triệu thùng, mức cao nhất kể từ tháng 6/2021.

Công ty Dịch vụ năng lượng Baker Hughes Co (BKR.O) cho biết, số lượng giàn khoan dầu khí, một chỉ báo sớm về sản lượng trong tương lai, đã giảm 1 giàn khoan xuống còn 760 giàn khoan trong tuần tính đến ngày 17/2. Bất chấp sự sụt giảm giàn khoan trong tuần này, Baker Hughes cho biết, tổng số giàn khoan vẫn tăng 115 giàn (+18%) so với cùng kỳ năm ngoái.

Một số hỗ trợ đến từ các động thái trong tuần của Cơ quan Năng lượng Quốc tế và Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ nhằm nâng cao dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu trong năm 2023 với lý do kỳ vọng nhu cầu của Trung Quốc sẽ mạnh hơn.

Kim loại: Giá vàng giảm 1,2%; nhôm, sắt, thép tăng; đồng diễn biến trái chiều

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tăng cao hơn vào thứ Sáu (17/2) nhưng vẫn trên đà giảm tuần thứ ba liên tiếp, chịu áp lực bởi USD mạnh và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng sau những phát biểu mới từ các quan chức Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) khẳng định chủ trương tiếp tục thắt chặt tiền tệ.

Cụ thể, kết thúc phiên này, vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.842,27 USD/ounce, trước đó có lúc giảm xuống mức thấp nhất kể từ cuối tháng 12/2022. Tính cả tuần, giá vàng giảm 1,2%.

Giá vàng Mỹ kỳ hạn tháng 4/2023 giảm 0,1% xuống 1.850,20 USD/ounce.

Các quan chức của Fed trong tuần cho biết, ngân hàng trung ương Mỹ chắc chắn sẽ tăng lãi suất nhiều hơn so với mức tăng hồi đầu tháng 2/2023 với việc Thống đốc Fed Michelle Bowman nhắc lại mục tiêu lạm phát 2%.

Chỉ số USD tăng tuần thứ ba liên tiếp, khiến vàng thỏi trở nên kém hấp dẫn hơn đối với người mua ở nước ngoài, trong khi lợi suất trái phiếu cũng tăng.

Ở nhóm kim loại công nghiệp, trong phiên giao dịch ngày 17/2, giá đồng tại London giảm, chịu áp lực bởi USD tăng mạnh do đặt cược vào việc tăng lãi suất từ Fed, mặc dù sự suy giảm được hạn chế bởi triển vọng nhu cầu ở Trung Quốc tốt hơn.

Cụ thể, trên Sàn giao dịch London, giá đồng kỳ hạn giao 3 tháng giảm 0,4% xuống 8.989,50 USD/tấn, sau khi tăng trở lại từ mức thấp nhất trong 5 tuần.

USD giữ vững mức tăng so với tiền tệ do giá sản xuất cao hơn dự kiến và số đơn xin trợ cấp thất nghiệp giảm cho thấy Fed sẽ phải duy trì lãi suất cao hơn trong thời gian dài hơn.

Hy vọng về sự phục hồi nhu cầu tại Trung Quốc tăng lên khi dự trữ kim loại giảm trong tuần qua đã hỗ trợ phần nào cho thị trường.

Trên sàn giao dịch Thượng Hải, giá đồng giao tháng 3/2023 tăng 1,3% lên 69.160 CNY (tương đương 10.083,1 USD)/tấn.

Một số kim loại công nghiệp khác, trên sàn London, giá nhôm tăng 0,5% lên 2.406 USD/tấn; kẽm tăng 0,6% lên 3.021,5 USD/tấn; thiếc ít thay đổi ở mức 27.005 USD/tấn; chì tăng 0,9% lên 2.047,50 USD/tấn.

Trên sàn giao dịch Thượng Hải, giá nhôm tăng 1% lên 18.570 CNY/tấn; thiếc tăng 1,6% lên 215.420 CNY/tấn; nikel tăng 1,1% lên 206.360 CNY/tấn; chì giảm 0,4% xuống 15.120 CNY/tấn.

Giá quặng sắt kỳ hạn tăng trong phiên 17/2, kéo dài mức tăng trong tuần, do hy vọng Trung Quốc sẽ đưa ra nhiều biện pháp chính sách hỗ trợ hơn cho nền kinh tế tại phiên họp thường niên của Đại hội Nhân dân toàn quốc vào tháng 3 tới.

Tâm lý được cải thiện cũng nâng giá thép và giá các nguyên liệu đầu vào sản xuất thép khác ở Trung Quốc, trong khi giá quặng sắt tại Đại Liên tăng cao sau khi giao dịch trong phạm vi giới hạn những ngày gần đây.

Cụ thể, giá quặng sắt được giao dịch nhiều nhất trong tháng 5/2023 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (Trung Quốc) tăng 2,1% lên 890 CNY (129,76 USD)/tấn. Trong phiên trước đó, giá quặng sắt đã tăng hơn 3% và trên đà tăng hàng tuần thứ hai liên tiếp.

Trên Sàn giao dịch Singapore, hợp đồng quặng sắt chuẩn tháng 3/2023 của nguyên liệu sản xuất thép tăng 1,5% lên 126,4 USD/tấn - mức cao nhất kể từ ngày 2/2/2023.

Giá nhà mới của Trung Quốc đã tăng vào tháng 1/2023 lần đầu tiên trong một năm do kết thúc chế độ Zero Covid của nước này, các chính sách thuận lợi về bất động sản và kỳ vọng của thị trường về các biện pháp kích thích nhiều hơn đã thúc đẩy nhu cầu.

Trung Quốc - nhà sản xuất thép hàng đầu tổ chức phiên họp thường niên của Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc vào đầu tháng 3/2023, nhiều hy vọng rằng Bắc Kinh sẽ công bố thêm các biện pháp kích thích kinh tế mới.

Trên sàn giao dịch Thượng Hải, giá thép cây tăng 1,4%; thép cuộn tăng 1,2%; dây thép cuộn tăng 0,4% và thép không gỉ tăng 1,2%.

Trên sàn giao dịch Đại Liên, giá than cốc và than luyện cốc lần lượt tăng 2,1% và 2,7%.

Nông sản: Tăng đồng loạt

Giá ngô, đậu tương và lúa mì kỳ hạn của Ủy ban Thương mại Chicago nhích tăng trong phiêng giao dịch ngày 17/2 khi các thương nhân chốt các vị thế bán trước kỳ nghỉ cuối tuần kéo dài 3 ngày của Mỹ và cân nhắc triển vọng vụ mùa tương phản ở Nam Mỹ.

Sự không chắc chắn về tương lai của hành lang xuất khẩu ngũ cốc ở Biển Đen đã củng cố các giá trị hợp đồng, trong khi USD mạnh lên và giá dầu thô giảm đã hạn chế đà phục hồi.

Cụ thể, kết thúc phiên, giá đậu tương giao tháng 3/2023 tăng 2 US cent lên 15,28-1/2 USD/bushel; ngô giao cùng kỳ hạn tăng 1-1/4 US cent lên 6,77-1/4 USD/bushel; hợp đồng lúa mì kỳ hạn tương tự tăng 1-1/4 cent lên 7,66-1/4 USD/bushel.

Nguyên liệu công nghiệp: Cà phê, ca cao, dầu cọ cùng tăng giá; cao su biến động trái chiều

Giá cà phê arabica giao tháng 5/2023 tăng 5,5 cent (+3,1%) lên 1,8575 USD/lb sau khi thiết lập mức cao nhất trong 3,5 tháng là 1,8685 USD/lb.

Nông dân trồng cà phê Brazil đã bán 78% sản lượng của vụ mùa hiện tại (23/2022, từ tháng 7 đến tháng 6) trước ngày 15 tháng 2, tốc độ bán chậm hơn so với thời điểm này trước đây, công ty tư vấn Safras & Mercado cho biết.

Cà phê robusta cùng kỳ hạn tăng 26 USD (+1,3%) lên 2.098 USD/tấn.

Ở châu Á, hoạt động giao dịch tại Việt Nam vẫn trầm lắng do nguồn cung trong nước hạn chế, mặc dù người mua ủng hộ cà phê robusta của Việt Nam do nguồn cung tại Indonesia còn rất ít.

Nông dân ở Tây Nguyên, vùng trồng cà phê lớn nhất của Việt Nam, bán hạt cà phê với giá 43.700-44.500 đồng (1,85-1,88 USD)/kg, cao hơn mức 42.400-44.000 đồng/kg của tuần trước.

Tại Indonesia, cà phê robusta Sumatra được chào giá cao hơn 90 USD so với hợp đồng giao tháng 3 trên sàn London, giảm so với mức cộng 110 USD của tuần trước do nguồn cung bắt đầu tăng dần.

Giá ca cao giao tháng 5/2023 trên sàn London tăng 9 GBP (+0,4%) lên 2.121 GBP/tấn sau khi đạt đỉnh 2.155 GBP/tấn - mức cao nhất kể từ tháng 11/2016. Ca cao cùng kỳ hạn trên sàn New York tăng 24 USD (+0,9%) lên 2.771 USD/tấn và tăng 6% trong tuần. Các đại lý cho biết, khả năng thiếu hụt nguồn cung trong niên vụ 2022/2023 (tháng 10/tháng 9) làm gia tăng lo ngại về nguồn cung khan hiếm.

Giá cao su kỳ hạn trên thị trường Nhật Bản tăng vào ngày 17/2, được hỗ trợ bởi đồng JPY yếu đi, nhưng vẫn giảm tuần thứ 3 liên tiếp. Cụ thể, hợp đồng cao su giao tháng 7/2023 của Sàn giao dịch Osaka (OSE) kết thúc phiên tăng 3,5 JPY (+1,6%) lên 222,3 yên (1,65 USD)/kg. Tính cả tuần, hợp đồng này giảm 1%.

Hợp đồng cao su SNRv1 giao tháng 5/2023 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) giảm 75 CNY xuống 12.490 CNY (1.816 USD)/tấn.

Giá dầu cọ kỳ hạn của Malaysia tăng lên mức cao nhất trong hơn 6 tuần và ghi nhận mức tăng hàng tuần thứ hai liên tiếp, được hỗ trợ bởi giá các loại dầu ăn đối thủ trên sàn giao dịch Đại Liên cũng tăng và đồng ringgit yếu hơn.

Cụ thể, hợp đồng dầu cọ giao tháng 5/2023 tăng 1,65% lên 4.136 ringgit (933,63 USD)/tấn vào ngày 17/2, đánh dấu phiên tăng thứ 2 liên tiếp. Hợp đồng này đạt 4.170 ringgit/tấn vào đầu phiên giao dịch, mức cao nhất kể từ ngày 4/1/20223 và tăng 5,22% trong tuần.

Dầu cọ bị ảnh hưởng bởi biến động giá của các loại dầu liên quan khi cùng nhau cạnh tranh để giành thị phần trên thị trường dầu thực vật toàn cầu.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

Tin bài liên quan