Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 18-25/10: Vàng ngắt chuỗi tăng 9 tuần liên tiếp, dầu thô tăng mạnh nhất gần 5 tháng

Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 18-25/10: Vàng ngắt chuỗi tăng 9 tuần liên tiếp, dầu thô tăng mạnh nhất gần 5 tháng

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 18-25/10, giá vàng thế giới đã điều chỉnh giảm sau 9 tuần tăng liên tiếp, còn dầu thô ghi nhận tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 6, nhiều mặt hàng khác cũng tăng mạnh như đồng, ca cao, nông sản…

Năng lượng: Giá dầu tăng mạnh nhất gần 5 tháng, khí LNG giảm, than châu Âu phục hồi

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thế giới giảm trong phiên giao dịch thứ Sáu (23/10) nhưng vẫn tăng trong tuần. Cụ thể, dầu thô Brent giảm 17 cent (-0,3%) về 65,82 USD/thùng; dầu thô Mỹ giảm 17 cent (-0,3%) về 61,62 USD/thùng. Tuy nhiên, tính cả tuần, giá dầu tăng khoảng 7% - mức tăng lớn nhất kể từ giữa tháng 6/2025.

Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, tồn kho dầu thô, xăng và sản phẩm chưng cất của Mỹ giảm trong tuần trước nữa do hoạt động lọc dầu và nhu cầu tăng lên. Tồn kho dầu thô đã giảm 961.000 thùng xuống còn 422,8 triệu thùng trong thời gian này.

Theo dữ liệu năng lượng của Mỹ, Nga là nhà sản xuất dầu thô lớn thứ hai thế giới vào năm 2024, sau Mỹ.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ giảm do lượng dự trữ tăng mạnh hơn dự kiến, duy trì lượng khí đốt trong kho cao hơn mức bình thường vào thời điểm này trong năm. Cụ thể, giá LNG kỳ hạn tháng 11/2025 giảm 10,6 cent (-3,1%) xuống 3,344 USD/mmBtu.

Giá giảm bất chấp dự báo nhu cầu trong 2 tuần tới sẽ cao hơn dự kiến trước đó, sản lượng giảm trong tháng này và lưu lượng khí đốt đến các nhà máy xuất khẩu LNG gần đạt mức kỷ lục.

Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, các công ty năng lượng đã bơm 87 tỷ feet khối (bcf) khí đốt vào kho lưu trữ trong tuần kết thúc vào ngày 17/10/2025. Con số này lớn hơn mức dự báo 81 bcf của các nhà phân tích trong một cuộc thăm dò của Reuters và so với mức tăng 79 bcf trong cùng tuần năm ngoái và mức tăng trung bình 77 bcf trong 5 năm qua.

Các nhà phân tích lưu ý rằng, lượng dự trữ tuần trước lớn hơn bình thường vào thời điểm này trong năm, chủ yếu là do thời tiết ôn hòa hơn bình thường, khiến nhu cầu sưởi ấm ở mức thấp.

LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã giảm xuống còn 106,6 tỷ feet khối mỗi ngày tính đến thời điểm hiện tại trong tháng 10, giảm so với mức 107,4 bcfd trong tháng 9 và mức cao kỷ lục hàng tháng là 108,0 bcfd vào tháng 8.

Với thời tiết chuyển lạnh theo mùa, LSEG dự báo nhu cầu khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ tăng từ 101,6 bcfd trong tuần này lên 107,0 bcfd vào tuần tới.

Trên thị trường than, chỉ số than nhiệt châu Âu phục hồi trên 97 USD/tấn, phục hồi từ mức thấp nhất trong 4 năm (86,8 USD/tấn) đạt được vào ngày 14/10/2025. Sự phục hồi này được thúc đẩy bởi việc tích cực mua lại các vị thế bán khống tích lũy trên thị trường. Tuy nhiên, một số người tham gia thị trường tin rằng giá đã chạm đáy, dự đoán sự đảo chiều của các chỉ số trong ngắn hạn và trung hạn. Mùa sưởi ấm ở châu Âu bắt đầu sớm hơn thường lệ trong năm nay, điều này cho thấy mức tiêu thụ than tăng.

EU được cho là đã chuẩn bị tốt cho mùa Đông 2025-2026, nhưng lượng khí đốt tự nhiên dự trữ thấp hơn đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái và thấp hơn mức trung bình 10 năm, trong khi lượng khí đốt rút ra đã tăng đáng kể. Lượng than dự trữ tại các kho cảng ARA ở châu Âu đã tăng lên 3,56 triệu tấn (+0,08 triệu tấn hay +2% so với tuần trước).

Giá than nhiệt lượng CV 6.000 của Nam Phi, sau khi chạm mức thấp nhất trong tháng 12/2020 (dưới 80 USD/tấn), đã giảm xuống mức 81-82 USD/tấn sau khi giá than tại châu Âu tăng. Khách hàng mua Ấn Độ giảm, đặc biệt là từ ngành sắt xốp, do than trong nước có sẵn và thị trường thép yếu, cũng như do các ngày lễ quốc gia tại địa phương. Do đó, các nhà xuất khẩu Nam Phi đã chuyển hướng tập trung sang các thị trường khu vực nhỏ hơn.

Tại Trung Quốc, giá than giao ngay 5.500 NAR tại cảng Tần Hoàng Đảo đã tăng thêm 2 USD/tấn, lên trên 101 USD/tấn. Hoạt động trên thị trường than nhiệt của Trung Quốc đã tăng tốc sau khi kỳ nghỉ lễ kết thúc. Giá được hỗ trợ bởi nhu cầu ngày càng tăng, với sự gián đoạn nguồn cung ở một số khu vực và sự suy giảm các nguồn năng lượng tái tạo, buộc các nhà máy điện phải tiêu thụ nhiều than hơn và bổ sung dự trữ.

Khu vực phía Bắc Trung Quốc đã chứng kiến mưa và tuyết rơi sớm, làm gián đoạn hoạt động tại các mỏ lộ thiên ở các khu vực khai thác Nội Mông và Thiểm Tây. Ở phía Nam, nhiệt độ đạt 33-35°C, duy trì nhu cầu cao về điều hòa không khí và tiêu thụ điện. Do hiện tượng thời tiết bất thường này, sản lượng điện than đã tăng kỷ lục vào mùa Thu: Mức tiêu thụ tại các nhà máy nhiệt điện lớn nhất tăng từ 4,1 triệu tấn/ngày lên 4,9 triệu tấn/ngày và tại 6 nhà máy nhiệt điện ven biển từ 1,8 triệu tấn/ngày lên 2,3 triệu tấn/ngày.

Lượng than tồn kho tại 9 cảng lớn nhất giảm xuống còn 24,49 triệu tấn (-0,3 triệu tấn so với tuần trước). Tổng lượng than tồn kho tại 6 nhà máy nhiệt điện ven biển lớn nhất đạt 13,96 triệu tấn (-0,27 triệu tấn so với tuần trước), trong khi lượng than tiêu thụ đạt 857.000 tấn/ngày (+14.000 tấn/ngày so với tuần trước).

Giá than Indonesia 5.900 GAR giảm nhẹ xuống còn 76,5 USD/tấn, trong khi giá than 4.200 GAR tăng lên gần 44 USD/tấn. Hoạt động thị trường tại Indonesia tăng tốc nhờ sự trở lại của người mua và thương nhân Trung Quốc, điều này đã hỗ trợ phần nào cho giá than. Mưa kéo dài đã hạn chế hoạt động khai thác và hậu cần.

Giá than Úc nhiệt lượng CV 6.000 đã điều chỉnh giảm xuống còn 103 USD/tấn. Trong 2 tuần đầu tháng 10, các nhà nhập khẩu châu Á (đặc biệt là Nhật Bản và Hàn Quốc) giảm nhập khẩu, trong khi các bên tham gia thị trường Trung Quốc tập trung vào nguyên liệu trong nước sau kỳ nghỉ lễ. Hơn nữa, giá than Indonesia 6.000 NAR được chào bán rẻ hơn 10-15 USD/tấn so với giá than Úc.

Kim loại: Vàng ngắt chuỗi tăng 9 tuần liên tiếp, đồng tăng vọt, quặng sắt và thép diễn biến trái chiều

Ở nhóm kim loại quý, kết thúc phiên giao dịch ngày 24/10, giá vàng giao ngay giảm 0.57% về 4,101.61 USD/ounce, sau khi giảm gần 2% vào đầu phiên. Giá vàng đã giảm hơn 3% trong tuần, qua đó chính thức ngắt chuỗi 9 tuần tăng liên tiếp. Hợp đồng vàng tương lai giảm 0.2% về 4,137.8 USD/ounce.

Giá vàng tăng khi số liệu CPI cốt lõi tháng 9 của Mỹ thấp hơn dự báo, nhưng có lẽ chưa đủ để ngăn chặn hoàn toàn lực bán tháo trong tuần. Diễn biến giá cho thấy vàng cần một đợt điều chỉnh nữa trước khi tích luỹ.

Giá vàng giao ngay đạt mức cao kỷ lục 4.381.21 USD/ounce vào ngày 20/10, nhưng đã sụt hơn 6% kể từ đó, khi nhà đầu tư chốt lời và các dấu hiệu cho thấy căng thẳng thương mại Mỹ - Trung hạ nhiệt làm giảm nhu cầu trú ẩn an toàn.

Dữ liệu của Bộ Lao động Mỹ cho thấy, chỉ số giá tiêu dùng CPI của Mỹ tăng 3% trong 12 tháng qua tính đến tháng 9/2025, thấp hơn so với dự báo tăng 3,1% từ các chuyên gia kinh tế.

Nhà đầu tư gần như hoàn toàn tin tưởng vào khả năng hạ lãi suất tại cuộc họp của Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ (Fed) vào tuần tới, với một đợt hạ lãi suất nữa dự kiến diễn ra vào tháng 12/2025. Lãi suất thấp hơn làm giảm chi phí cơ hội của việc nắm giữ tài sản không sinh lời như vàng.

Giá vàng đã tăng 55% từ đầu năm đến nay, do căng thẳng địa chính trị và thương mại, hoạt động mua vào mạnh mẽ của các ngân hàng trung ương, kỳ vọng về việc hạ lãi suất Mỹ cùng nhiều yếu tố khác.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng Thượng Hải tăng vọt sau khi Nhà Trắng xác nhận cuộc gặp giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, đồng thời Hội nghị Trung ương 4 của Trung Quốc cam kết thúc đẩy tiêu dùng và đổi mới công nghệ.

Cụ thể, hợp đồng đồng được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) tăng 2,5% lên 87.720 CNY (12.315,04 USD/tấn) và kết thúc tuần tăng 2,59%.

Giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,67% lên 10.927 USD/tấn và tăng 3,04% trong tuần.

Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Hội nghị Trung ương 4 cam kết tập trung vào đổi mới công nghệ và thúc đẩy tiêu dùng. Thông cáo nêu rõ các ưu tiên của Trung Quốc trong 5 năm tới phù hợp với kỳ vọng của thị trường, trong đó sẽ tăng đáng kể tỷ lệ tiêu dùng hộ gia đình trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

Trong khi đó, Thư ký báo chí Nhà Trắng Karoline Leavitt đã xác nhận cuộc gặp Tổng thống Mỹ Donald Trump – Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong tuần này tại Hàn Quốc, một phần trong chuyến công du châu Á của Tổng thống Mỹ. Ông Donald Trump sau đó bày tỏ sự lạc quan về một thỏa thuận thương mại với Trung Quốc.

Cuộc gặp này từng bị đặt dấu hỏi sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump đe dọa hủy bỏ, do Trung Quốc mở rộng các biện pháp hạn chế xuất khẩu khoáng sản đất hiếm vào đầu tháng này.

Về các kim loại cơ bản khác trên sàn SHFE: Nhôm tăng 0,45%; kẽm tăng 0,77%; chì tăng 0,94%; niken tăng 0,81% và thiếc tăng 1,19%.

Trong khi đó, trên sàn LME: Nhôm tăng 0,42%; kẽm tăng 0,56%; chì tăng 0,42%; thiếc tăng 0,30% và niken là kim loại duy nhất giảm, ở mức 0,25%.

Ở nhóm kim loại đen, giá thép thanh kỳ hạn tháng 11/2025 trên sàn Thượng Hải (SHFE) giảm 0,63% (-19 CNY) về 2.985 CNY/tấn.

Trên sàn Đại Liên (DCE), giá quặng sắt tăng 0,25% (+2 CNY) lên 801 CNY/tấn. Trên sàn Singapore (SGX), giá quặng sắt kỳ hạn tháng 11/2025 giảm 0,45 USD về 104,2 USD/tấn.

So với cuối tuần trước, giá thép gần như đi ngang, trong khi quặng sắt Đại Liên tăng 1,6% và quặng sắt Singapore tăng 0,6%.

Giá hợp đồng quặng sắt SGX giảm trong phiên giao dịch cuối tuần (24/10), chấm dứt chuỗi 3 phiên tăng liên tiếp, khi nhu cầu tại Trung Quốc suy yếu do biên lợi nhuận sản xuất thép bị thu hẹp.

Tương tự, hợp đồng quặng sắt giao tháng 1/2026 trên sàn Đại Liên kết thúc phiên 24/10 giảm 0,58% vêd 771 CNY (108,24 USD)/tấn và ghi nhận mức giảm nhẹ 0,1% trong tuần.

Trên sàn SHFE, các sản phẩm thép diễn biến trái chiều. Hợp đồng thép cây giảm 0,75%; thép cuộn dây giảm 0,18%; trong khi thép cuộn cán nóng nhích nhẹ 0,03% và thép không gỉ tăng 0,71%.

Các chuyên gia nhận định, xu hướng giá thép trong ngắn hạn sẽ phụ thuộc chủ yếu vào mức phục hồi nhu cầu nội địa Trung Quốc và giá nguyên liệu đầu vào. Việc Trung Quốc tăng nhập khẩu hơn 116 triệu tấn quặng sắt trong tháng 9, cao hơn 10% so với tháng 8, cho thấy nguồn cung dồi dào nhưng cũng làm dấy lên lo ngại dư thừa trong quý IV.

Cùng lúc, chi phí vận hành và giá than tăng đang gây sức ép lên lợi nhuận của các nhà máy. Thị trường được dự báo sẽ tiếp tục dao động trong biên độ hẹp, với xu hướng giảm nhẹ nếu sản lượng không sớm phục hồi.

Nông sản: Đồng loạt tăng giá

Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần qua 24/10, giá lúa mì kỳ hạn tháng 12 (WZ25) giảm nhẹ 0,5 cent xuống 5,1205 USD/giạ, sau phiên tăng 1,8% trước đó. Tính chung cả tuần, hợp đồng này vẫn tăng 8-3/4 cent (+1,7%), phục hồi nhẹ so với mức thấp nhất ghi nhận ngày 14/10. Lúa mì cứng đỏ mùa Đông tháng 12 (KWZ25) tăng nhẹ 1,05 cent lên 5,0105 USD/giạ, trong khi lúa mì Xuân tháng 12 (MWEZ25) giảm 1 cent còn 5,57 USD/giạ.

Áp lực giảm giá đến từ nguồn cung toàn cầu dồi dào, khiến đà tăng của lúa mì Mỹ bị hạn chế. Trên thị trường nội địa Mỹ, giá lúa mì giao bằng đường sắt qua Kansas City ổn định, phản ánh nhu cầu tương đối vững của các nhà máy xay bột.

Tại châu Âu, giá lúa mì tăng nhẹ khi giới giao dịch kỳ vọng kết quả tích cực từ các cuộc đàm phán thương mại Mỹ - Trung, cùng thông tin Trung Quốc tìm mua thêm lúa mì nước ngoài.

Giá ngô kỳ hạn tháng 12 (CZ25) trên sàn CBOT giảm 4,75 cent còn 4,2325 USD/giạ, do hoạt động chốt lời và bán ra từ nông dân sau khi giá đạt mức cao nhất trong 1 tháng vào phiên trước đó. Tính chung cả tuần, giá nhích nhẹ 3/4 cent.

Vụ thu hoạch ngô tại vùng Trung Tây Hoa Kỳ đang diễn ra thuận lợi, trong khi các nhà đầu tư vẫn chờ đợi tín hiệu từ Bộ Nông nghiệp Mỹ sau giai đoạn chính phủ tạm ngưng hoạt động. Diễn biến thị trường khá trầm lắng do giới đầu tư theo dõi sát các bước tiến trong quan hệ thương mại Mỹ - Trung.

Tổng thống Mỹ Donald Trump dự kiến gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Hàn Quốc trong tuần này, với vấn đề mua nông sản, đặc biệt là đậu nành, được đặt lên hàng đầu.

Giá đậu tương kỳ hạn tháng 11 (SX25) giảm 3 cent xuống 10,4175 USD/giạ, do áp lực bán ra từ nông dân và hoạt động chốt lời sau khi giá chạm đỉnh trong một tháng. Tuy vậy, tính cả tuần, hợp đồng này vẫn tăng 22,05 cent (+2,2%) nhờ kỳ vọng vào khả năng đạt được thỏa thuận thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc.

Trên cùng sàn CBOT, giá bột đậu nành giao tháng 12 (SMZ25) tăng 1,8 USD lên 294,10 USD/tấn ngắn, trong khi giá dầu đậu nành tháng 12 (BOZ25) giảm 0,6 cent xuống 50,27 cent/pound.

Các nhà phân tích cho biết, đà giảm chủ yếu đến từ việc nhà sản xuất tăng bán ra khi vụ thu hoạch sắp hoàn tất. Đồng thời, thị trường đang chờ kết quả cuộc gặp giữa Tổng thống Donald Trump và Chủ tịch Tập Cận Bình, dự kiến diễn ra tại Hàn Quốc, nhằm bàn về thương mại nông sản.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá ca cao tăng mạnh, cao su cũng đi lên, đường giảm, cà phê diễn biến trái chiều

Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần qua 24/10, giá cà phê Arabica (KC1!) giảm 7,15 cent (-1,7%) xuống 4,03 USD/pound, sau khi tăng mạnh lên 4,3795 USD/pound vào phiên trước đó. Diễn biến này diễn ra trong bối cảnh lượng tồn kho được chứng nhận trên sàn ICE (KC-TOT-TOT) tiếp tục giảm, trong khi xuất khẩu từ Brazil bị ảnh hưởng bởi mức thuế nhập khẩu 50% mà Mỹ áp lên hàng hóa nước này.

Trái lại, giá cà phê Robusta (RC2!) tăng nhẹ 0,8% lên 4.557 USD/tấn. Tại Việt Nam - quốc gia xuất khẩu robusta lớn nhất thế giới, bão Fengshen đã suy yếu thành áp thấp nhiệt đới và không gây thiệt hại đáng kể cho vùng trồng cà phê trọng điểm.

Trên sàn London (LME), giá ca cao kỳ hạn tháng 12 (C2!) giảm 42 bảng (-0,9%) xuống 4.561 bảng/tấn, nhưng vẫn tăng 10% cả tuần. Trước đó, hợp đồng này từng đạt 4.686 bảng/tấn - mức cao nhất trong 3 tuần.

Tại New York, giá ca cao (CC1!) giảm nhẹ 0,3% về 6.319 USD/tấn, nhưng ghi nhận mức tăng 7% trong tuần.

Giá ca cao tăng do vụ thu hoạch chính ở Bờ Biển Ngà - quốc gia sản xuất ca cao lớn nhất thế giới khởi động chậm và xuất hiện lo ngại về chất lượng hạt. Nhà đầu tư cũng đang dõi theo bầu cử tổng thống sắp tới tại nước này, sau khi xảy ra biểu tình khiến một người thiệt mạng hôm 14/10.

Trên sàn ICE, giá đường trắng kỳ hạn (SF1!) giảm 6,5 USD (-1,5%) xuống 431,3 USD/tấn, sau khi có lúc chạm đáy 430 USD/tấn - mức thấp nhất kể từ tháng 7/2021. Giá đường thô (SB1!) cũng giảm 2,1% xuống 14,97 cent/lb, mất tổng cộng 3,4% trong tuần.

Áp lực giảm giá đến từ triển vọng nguồn cung dồi dào hơn. Theo công ty tư vấn Datagro, niên vụ 2025/2026 có thể ghi nhận dư thừa 1,98 triệu tấn đường, trái ngược mức thâm hụt 5 triệu tấn của vụ trước. Bên cạnh đó, dữ liệu từ UNICA cho thấy, sản lượng đường Brazil tính đến đầu tháng 10 đã tăng 0,8%, phản ánh sự phục hồi đáng kể so với giai đoạn giảm mạnh hồi đầu tháng 8.

Indonesia cũng vừa thông báo kế hoạch áp dụng tỷ lệ bioethanol bắt buộc 10% trong xăng từ năm 2027, góp phần ảnh hưởng đến cán cân cung - cầu đường trong dài hạn.

Kết thúc tuần qua, tại Nhật Bản, giá cao su RSS3 trên sàn TOCOM tăng tại một số kỳ hạn giao hàng. Hợp đồng tháng 10/2025 tăng 4.50 JPY (+1,48%) lên 308 JPY/kg; tháng 11/2025 giữ nguyên ở mức 304,9 JPY/kg; tháng 1/2026 tăng 0,7 JPY/kg (+0,23%) lên 308,9 JPY/kg.

Trên sàn Thượng Hải (Trung Quốc), giá cao su tiếp tục tăng so với phiên hôm qua. Hợp đồng tháng 11/2025 tăng 105 cent (+0,72%) lên 145,95 cent/kg; tháng 1/2026 tăng 125 cent (+0,82%) lên 153,5 cent/kg; tháng 3/2026 tăng 180 cent (+1,18%) lên 154,1 cent/kg;…

Theo Reuters, đồng yên Nhật tiếp tục suy yếu, rơi xuống mức thấp nhất trong 1 tuần so với USD khi giới đầu tư chờ đợi chi tiết gói kích thích kinh tế quy mô lớn của tân Thủ tướng Sanae Takaichi. Đồng yên yếu khiến các tài sản định giá bằng nội tệ trở nên hấp dẫn hơn với nhà đầu tư nước ngoài, song lại gây áp lực lên thị trường chứng khoán khi các nhà đầu tư nội địa chuyển hướng sang các kênh khác.

Chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản giảm hơn 1% trong phiên 24/10 do hoạt động chốt lời gia tăng sau chuỗi tăng mạnh trước đó, vốn được thúc đẩy bởi kỳ vọng vào chính sách tài khóa mở rộng của chính phủ mới.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục leo dốc sau khi Mỹ áp đặt lệnh trừng phạt mới đối với các công ty dầu mỏ Nga liên quan đến cuộc xung đột ở Ukraine. Diễn biến này ngay lập tức tác động đến thị trường cao su tự nhiên, bởi cao su tổng hợp - sản phẩm từ dầu thô, trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp về giá.

Theo Công ty chứng khoán Hàng hóa công nghiệp Trung Quốc (Industrial Bank Futures), dù đang trong giai đoạn khai thác cao điểm, lượng mưa lớn tại nhiều vùng sản xuất ở châu Á đã cản trở việc thu hoạch mủ, khiến nguồn cung gián đoạn. Ngược lại, ngành ô tô toàn cầu vẫn duy trì đà sản xuất tích cực, hỗ trợ nhu cầu tiêu thụ cao su.

(Nguồn: Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Thời báo Tài chính Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

Tin bài liên quan