Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 18-25/11: Dầu ngắt chuỗi giảm, vàng vượt 2.000 USD/ounce

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 18-25/11, thị trường hàng hóa thế giới ghi nhận giá dầu ngắt chuỗi giảm 5 tuần liên tục, giá vàng vượt mức 2.000 USD/ounce, trong khi nhiều mặt hàng khác biến động mạnh như đồng, sắt, thép, cao cao, cà phê…
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 18-25/11: Dầu ngắt chuỗi giảm, vàng vượt 2.000 USD/ounce

Năng lượng: Giá dầu tăng trở lại sau 5 tuần

Giá dầu giảm vào thứ Sáu (24/11) sau sự kiện một số con tin ở Dải Gaza được thả tự do, làm giảm bớt lo ngại rủi ro địa chính trị, nhưng đã ghi nhận tuần tăng đầu tiên trong hơn 1 tháng trước cuộc họp của OPEC+ diễn ra trong tuần này.

Cụ thể, kết thúc phiên, dầu thô Brent giảm 84 cent (-1%) về 80,58 USD/thùng; dầu thô trung cấp Tây Texas của Mỹ (WTI) giảm 1,56 USD (-2%) vè 75,54 USD/thùng. Không có thỏa thuận nào cho mặt hàng dầu WTI vào thứ Năm (23/4) do thị trường nghỉ giao dịch ngày lễ Tạ ơn của Mỹ.

Tuy nhiên, tính chung cả tuần, 2 hợp đồng trên đều ghi nhận mức tăng hàng tuần đầu tiên sau 5 tuần khi OPEC+ chuẩn bị cho một cuộc họp dự kiến sẽ cắt giảm sản lượng ở mức cao sau khi giá dầu liên tục giảm gần đây.

Kim loại: Vàng vượt mức 2.000 USD/ounce; kim loại màu, kim loại đen biến động trái chiều

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng đã vượt qua mức quan trọng 2.000 USD/ounce vào thứ Sáu (24/11), ghi nhận mức tăng hàng tuần thứ hai liên tiếp, trái ngược với USD yếu hơn khi đặt cược rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã hoàn thành chu kỳ tăng lãi suất.

Cụ thể, vàng giao ngay tăng 0,5% lên 2.001,97 USD/ounce trong phiên và tăng hơn 1% trong tuần qua. Giá vàng kỳ hạn tháng 12/2023 tăng 0,5% lên 2.003 USD/ounce.

Chỉ số USD giảm 0,4% trong phiên 24/11 và cả tuần giảm tuần thứ 2 liên tiếp do kỳ vọng Fed bắt đầu cắt giảm lãi suất vào tháng 5/2024 ngày càng tăng.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng ở London giữ ổn định trong phiên 24/11và ghi nhận tăng tuần thứ hai liên tiếp với sự lạc quan về nhu cầu từ nước tiêu dùng hàng đầu thế giới là Trung Quốc và sự gián đoạn nguồn cung.

Cụ thể, giá đồng giao sau 3 tháng trên Sàn Giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,1% xuống 8.403,5 USD/tấn và tăng 1,7% trong tuần qua.

Hợp đồng đồng giao tháng 12/2023 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn Giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) tăng 0,3% lên 68.150 CNY (tương đương 9.450,71 USD)/tấn trong phiên 24/11 và tăng 0,5% trong cả tuần.

Triển vọng nhu cầu đối với đồng, được sử dụng trong lĩnh vực điện, nhà ở và cơ sở hạ tầng, được cải thiện nhờ một loạt biện pháp Trung Quốc ban hành để phục hồi nền kinh tế. Trong khi đó, hiệu suất mạnh hơn của CNY đã hỗ trợ thêm, khiến việc mua hàng hóa được định giá bằng USD trở nên rẻ hơn, bao gồm cả đồng.

Giá các kim loại màu khác trên sàn LME: Nhôm ổn định ở mức 2.224 USD/tấn; thiếc giảm 1,7% xuống 24.070 USD/tấn; kẽm dao động nhẹ ở mức 2.537 USD/tấn; nikel giảm 0,5% xuống 16.540 USD/tấn; chì tăng 0,5% lên 2.224,50 USD/tấn.

Trên sàn SHFE, giá nhôm tăng 0,2% lên 18.825 CNY/tấn; kẽm tăng 0,4% lên 21.030 CNY/tấn; chì giảm 0,5% xuống 16.490 CNY/tấn; thiếc giảm 1,8% xuống 200.160 CNY/tấn; nikel tăng 0,5% lên 129.190 CNY/tấn.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn tăng phiên thứ ba liên tiếp trong ngày 24/11 do sự lạc quan về hỗ trợ bổ sung cho thị trường bất động sản Trung Quốc, cho dù thị trường thép suy yếu đã phần nào hạn chế đà tăng.

Cụ thể, giá quặng sắt được giao dịch nhiều nhất trong tháng 1/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc tăng 1,53% lên 993,5 CNY (tương đương 137,77 USD)/tấn - mức cao nhất gần 2 tuần qua.

Giá quặng sắt chuẩn giao tháng 12/2023 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 1,04% lên 134,65 USD/tấn - mức cao nhất kể từ ngày 21/2/2023.

Các nhà phân tích cảnh báo về những rủi ro tiềm ẩn đối với giá quặng sắt với lý do khả năng Trung Quốc tăng cường giám sát sau đợt tăng giá gần đây.

Giá nguyên liệu sản xuất thép khác kéo dài giảm, với giá than cốc và than luyện cốc trên sàn DCE giảm lần lượt 1,19% và 0,79%.

Giá thép chuẩn trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải hầu hết đều giảm: Thép cây giảm 0,45%; thép thanh giảm 1,73%; thép không gỉ giảm 1,45%; ngược lại, thép cuộn cán nóng tăng thêm 0,17%.

Các nhà phân tích tại Sinosteel Futures cho biết, các yếu tố cơ bản về thép không được hỗ trợ nhiều vì việc giảm tồn kho đã chậm lại. Sự yếu kém trên thị trường kỳ hạn xảy ra bất chấp một số nhà sản xuất thép Trung Quốc tăng giá giao ngay từ 50-200 CNY/tấn.

Các nhà phân tích tại Everbright Futures cho biết, người tiêu dùng hạ nguồn đã cho thấy sự phản kháng với giá thép tăng cao do nhu cầu chậm lại theo mùa, trong khi sản lượng tăng lên trong bối cảnh lợi nhuận được cải thiện.

Nông sản: Giá đồng loạt giảm

Giá đậu tương kỳ hạn tương lai của Ủy ban Thương mại Chicago giảm trong phiên thứ Sáu (24/11) do mưa thuận lợi cho vụ mùa ở Brazil, nhà cung cấp lớn nhất toàn cầu.

Cụ thể, kết thúc phiên, giá đậu tương giảm 25-3/4 US cent xuống 13,30-3/4 USD mỗi bushel. Giá dầu đậu tương kỳ hạn tháng 1/2024 giảm 2,42 cent xuống 50,29 cent/lb.

Giá ngô phiên này giảm 5-1/4 US cent xuống 4,82-1/2 USD/bushel, lúa mì cũng giảm 7-1/4 US cent xuống 5,77-1/4 USD/bushel.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường giảm, đi ngược với cao su; cà phê, ca cao biến động trái chiều

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 giảm 0,24 cent (-0,9%) xuống 26,98 cent/lb. Đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 8,1 USD (-1,1%) xuống 738 USD/tấn.

Giá đường giảm bởi thị trường trượt xa hơn so với mức cao nhất trong 12 năm là 28,14 cent/lb đạt được trong tháng này trước áp lực sản xuất mạnh ở Brazil. Thị trường đang chờ đợi dữ liệu sản xuất mía và đường của khu vực trọng điểm Trung Nam Brazil dự kiến được công bố trong vài ngày tới.

Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2024 giảm 0,9 cent (-0,5%) xuống 1,6815 USD/lb. Ngược lại, cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2024 tăng 54 USD (+2,2%) lên 2.545 USD/tấn.

Các đại lý cho biết mưa ở Brazil làm giảm mối lo ngại về mùa màng sau điều kiện khô hạn gần đây, qua đó góp phần khiến giá giảm.

Giá ca cao kỳ hạn tương lai trên sàn New York tăng bởi do tâm lý lo ngại về vụ mùa ở Tây Phi. Cụ thể, ca cao kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn New York tăng 0,1% lên 4.089 USD/tấn, gần sát mức cao nhất 45 năm là 4.148 USD/tấn được thiết lập vào đầu tuần qua. Trong khi đó, ca cao cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 0,1% xuống 3.459 bảng/tấn.

Thời tiết bất lợi ở Tây Phi đã hạn chế sản xuất và có thể dẫn đến đợt thâm hụt toàn cầu lần thứ ba liên tiếp trong mùa vụ 2023/2024 (tháng 10/tháng 9).

Giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản tăng vào thứ Sáu (24/11) sau 2 phiên giảm do các báo cáo về lạm phát gia tăng và khả năng thiếu hụt nguồn cung, mặc dù JPY mạnh lên đã hạn chế mức tăng.

Cụ thể, hợp đồng cao su giao tháng 4/2024 trên Sàn giao dịch Osaka (OSE) tăng 4,1 JPY (+1,6%) lên 266 JPY (1,78 USD)/kg. Tuy nhiên, tính cả tuần, hợp đồng này giảm 0,07%, ghi nhận tuần giảm đầu tiên sau 2 tuần tăng liên tiếp. Hợp đồng cao su giao tháng 1/2024 trên sàn SHFE tăng 95 CNY (+0,7%) lên 13.970 CNY (1.937,29 USD)/tấn.

Giá tiêu dùng cốt lõi của Nhật Bản tăng nhẹ trong tháng 10, sau khi giảm nhẹ vào tháng trước đó, củng cố quan điểm của các nhà đầu tư rằng lạm phát dai dẳng có thể buộc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) phải cắt giảm kích thích tiền tệ trong thời gian dài.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).
Tin bài liên quan