
Năng lượng: Giá dầu giảm mạnh, khí LNG lùi nhẹ
Trên thị trường dầu mỏ, tuần qua chứng kiến biến động mạnh khi giá dầu thế giới lao dốc, ghi nhận tuần giảm sâu nhất trong gần 1,5 tháng qua.
Cụ thể, kết thúc phiên giao dịch 8/8, dầu thô Brent nhích nhẹ 0,2% lên 66,59 USD/thùng, còn dầu thô Mỹ (WTI) giữ nguyên ở mức 63,88 USD/thùng. Tính chung cả tuần, dầu Brent giảm 4,4% và dầu WTI giảm 5,1% - mức giảm mạnh nhất kể từ cuối tháng 6/2025.
Trong tuần, giá dầu Brent và WTI liên tiếp giảm trong 6 phiên giao dịch do tác động từ quyết định của OPEC+ nâng sản lượng thêm 547.000 thùng/ngày trong tháng 9 tới, cùng lo ngại nhu cầu tiêu thụ dầu toàn cầu suy yếu.
Nhu cầu xăng tại Mỹ trong tháng 5 ở mức thấp nhất kể từ đại dịch Covid-19, sản lượng dầu thô đạt kỷ lục, tạo áp lực dư cung. Bên cạnh đó, các tín hiệu kinh tế kém khả quan tại Mỹ, cùng những bất ổn xoay quanh chính sách thuế nhập khẩu của Tổng thống Donald Trump, càng khiến tâm lý nhà đầu tư thận trọng.
Tuy nhiên, đà giảm phần nào được kìm hãm ở cuối tuần nhờ tồn kho dầu thô Mỹ giảm mạnh, trong khi Ả Rập Xê-út nâng giá bán dầu sang châu Á và nhập khẩu dầu của Trung Quốc vẫn duy trì ở mức cao.
Giới phân tích nhận định, diễn biến giá dầu thế giới những ngày tới sẽ phụ thuộc lớn vào cuộc gặp giữa Tổng thống Nga Vladimir Putin và Tổng thống Mỹ Donald Trump, cùng các động thái tiếp theo của OPEC+ về sản lượng. Với những yếu tố địa chính trị và kinh tế toàn cầu chưa ổn định, thị trường năng lượng dự báo tiếp tục biến động khó lường.
Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ ổn định do lượng dự trữ nhỏ hơn dự kiến vào tuần trước và dự báo thời tiết nóng hơn bình thường đã bù đắp cho sản lượng gần kỷ lục. Cụ thể, giá LNG giao tháng 9 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York giảm nhẹ 1 cent (-0,3%) về 3,067 USD/mmBTU.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, các công ty năng lượng đã bổ sung 7 tỷ feet khối khí đốt vào kho dự trữ trong tuần kết thúc vào ngày 1/8, mức tăng hàng tuần nhỏ nhất từ đầu năm đến nay. Theo giới phân tích, đợt nắng nóng khắc nghiệt tuần qua đã làm tăng lượng máy phát điện chạy bằng khí đốt được đốt để duy trì hoạt động của máy điều hòa không khí.
LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã giảm xuống còn 107,8 tỷ feet khối mỗi ngày tính đến thời điểm hiện tại trong tháng 8, giảm so với mức cao kỷ lục hàng tháng là 107,9 bcfd vào tháng 7. LSEG dự báo, nhu cầu khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ tăng từ 105,8 bcfd trong tuần này lên 109,6 bcfd vào tuần tới.
Lượng khí đốt trung bình vào 8 nhà máy xuất khẩu LNG lớn của Mỹ đã tăng lên 16,1 bcfd tính đến thời điểm hiện tại trong tháng 8, tăng so với mức 15,5 bcfd trong tháng 7. Con số này tương đương với mức cao kỷ lục hàng tháng là 16 bcfd vào tháng 4.
Kim loại: Vàng tăng giá tuần thứ 2 liên tiếp; đồng hồi phục nhẹ, thép và quặng sắt cũng đi lên
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng đã trải qua tuần giao dịch đầy biến động, đặc biệt trong 2 phiên cuối tuần khi những báo cáo về khả năng áp thuế đối với vàng miếng gây ra làn sóng hoảng loạn trên thị trường vàng quốc tế. Dù Nhà Trắng sau đó đã chính thức bác bỏ thông tin này, giá vàng vẫn duy trì quanh mức 3.400 USD/ounce trong bối cảnh kinh tế bất ổn.
Cụ thể, chốt phiên giao dịch 8/8, giá vàng giao ngay đạt 3.399 USD/ounce, tăng gần 40 USD (+1,1%) so với cuối tuần trước nữa. Giá vàng tăng tuần thứ 2 liên tiếp, nhưng vẫn thấp hơn mốc đỉnh lịch sử hồi tháng 4/2025 ở quanh vùng 3.500 USD/ounce.
Dù tăng trong 2 tuần qua, nhưng giá vàng được dự báo sẽ còn tăng tiếp. Trong tuần này, giới đầu tư sẽ theo dõi chặt chẽ các dữ liệu kinh tế quan trọng, đặc biệt là những chỉ báo về lạm phát và sức khỏe người tiêu dùng.
Trong đó, Ngân hàng Dự trữ Australia (RBA) dự kiến công bố quyết định giảm lãi suất 0,25 điểm phần trăm từ mức 3,85% xuống 3,6% tuần. Thị trường cũng sẽ chú ý tới báo cáo CPI tháng 7 của Mỹ, dự báo cho thấy lạm phát cơ bản tăng từ 0,2% trong tháng 6 lên 0,3%. Hay dữ liệu chỉ số giá sản xuất (PPI) của Mỹ, cùng với số liệu đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần...
Ở nhóm kim loại màu, giá đồng tăng nhẹ trong phiên thứ ba liên tiếp, được hỗ trợ bởi kỳ vọng về việc Mỹ cắt giảm lãi suất sau khi ngân hàng trung ương bổ nhiệm và dữ liệu kinh tế lạc quan từ Trung Quốc.
Cụ thể, giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) đã tăng 0,8% lên 9.759 USD/tấn, tiếp tục đà phục hồi sau khi chạm mức thấp nhất trong 3 tuần vào ngày 31/7. Hợp đồng đồng giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch Tương lai Thượng Hải (SHFE) tăng 0,1% lên 78.490 CNY (10.929 USD)/tấn. Giá đồng tương lai trên sàn Comex của Mỹ tăng 1,6% lên 4,4925 USD/lb, tương đương 9.904 USD/tấn, đưa mức chênh lệch giá đồng giữa sàn Comex và LME lên 145 USD/tấn.
Tổng thống Mỹ Donald Trump đã công bố lựa chọn của mình để lấp ghế trống tại Cục Dự trữ Liên bang (Fed), làm tăng hy vọng về việc cắt giảm lãi suất và làm suy yếu USD. “Đồng bạc xanh” yếu hơn khiến hàng hóa định giá bằng đồng tiền này trở nên rẻ hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Dữ liệu công bố hôm thứ Năm (7/8) cho thấy, xuất khẩu của Trung Quốc vượt dự báo trong tháng 7 khi các nhà sản xuất tận dụng tối đa thỏa thuận đình chiến thuế quan mong manh giữa Bắc Kinh và Washington để vận chuyển hàng hóa.
Về phía cung, các nhà đầu tư đang theo dõi diễn biến tại Chile - quốc gia sản xuất đồng hàng đầu, nơi Codelco đã xin phép mở cửa trở lại một phần mỏ chính sau vụ tai nạn chết người vào tuần trước.
Trên sàn LME, giá nhôm không đổi ở mức 2.610 USD/tấn; kẽm tăng 0,5% lên 2.827 USD/tấn; thiếc giảm 0,1% về 33.700 USD/tấn; niken tăng 0,3% lên 15.160 USD/tấn; chì giảm 0,3% về 2.003 USD/tấn.
Ở nhóm kim loại đen, kết thúc phiên giao dịch 8/8, hợp đồng thép thanh tháng 8 trên sàn Thượng Hải giảm 0,72% về 3.179 CNY/tấn. Quặng sắt kỳ hạn tháng 8 trên sàn Đại Liên (DCE) giữ ở mức 820 CNY/tấn, quặng sắt tương lai sàn Singapore neo tại 101,7 USD/tấn. So với cuối tuần trước nữa, thép Thượng Hải tăng 0,3%; quặng sắt Đại Liên tăng 3,3% và quặng sắt Singapore tăng 2,1%.
Các nguyên liệu khác trên sàn DCE biến động trái chiều: Than cốc tăng 0,49% và than luyện cốc giảm 0,27%. Trên sàn SHFE, thép cuộn cán nóng giảm 0,55%; thép dây giảm 0,23%; trong khi thép không gỉ tăng 0,19%.
Giá quặng sắt tăng nhẹ do lo ngại dư cung và triển vọng kinh tế Trung Quốc. Các chuyên gia nhận định, khả năng cải cách mạnh về nguồn cung như giai đoạn 2016-2018 là thấp, dù Bắc Kinh duy trì chính sách hạn chế công suất. Nhu cầu nguyên liệu của các nhà máy được hỗ trợ bởi lợi nhuận sản xuất ổn định.
Trên thị trường quốc tế, Brazil xuất khẩu 41,1 triệu tấn quặng sắt trong tháng 7/2025 - mức cao kỷ lục, nhưng doanh thu giảm 8,8% so với cùng kỳ năm trước do giá bình quân giảm khoảng 13%. Niềm tin ngành khai khoáng cải thiện nhờ tiến triển dự án tại Trung Quốc, giúp giá quặng phục hồi từ cuối tháng trước đó.
Thị trường đang chờ số liệu lạm phát Trung Quốc để đánh giá triển vọng. Giá quặng sắt và thép phụ thuộc vào tiến độ triển khai các gói kích thích, đặc biệt trong đầu tư hạ tầng. Nếu Bắc Kinh duy trì nhịp này, giá quặng sắt có thể giữ trên 100 USD/tấn.
Trong tháng 7 vừa qua, Trung Quốc xuất khẩu 9,83 triệu tấn thép, tăng 1,6% so với tháng 6; trong đó thép cuộn cán nóng đạt 1,21 triệu tấn, tăng 10,2%. Ở chiều nhập khẩu, sản lượng nhập giảm 3,8% xuống 452.000 tấn. Riêng quặng sắt, nhập khẩu tháng 7 đạt 104,62 triệu tấn, giảm nhẹ so với tháng trước đó và thấp hơn 2,3% so với cùng kỳ năm trước.
Nông sản: Tiếp tục giảm giá
Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) ghi nhận giá lúa mì, ngô và đậu tương đều giảm, cũng là tuần giảm thứ 3 liên tục, khi thị trường chờ báo cáo cung cầu của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), kỳ vọng nguồn cung dồi dào gây áp lực lên giá.
Giá lúa mì Euronext giảm trong tuần qua khi lực phục hồi từ sàn CBOT suy yếu, nhà đầu tư tập trung vào dự báo vụ mùa của USDA dự kiến công bố ngày 12/8/2025. Tại Mỹ, lúa mì CBOT (ZW1!) giảm trở lại trong phiên 8/8 sau phiên bật lên trước đó nhờ xuất khẩu, rời xa mức đáy 5 năm ghi nhận hôm thứ Năm.
Trong phiên thứ Năm (7/8), hợp đồng lúa mì đỏ mềm mùa Đông tháng 9 (WU25) tăng 9,75 cent, lên 5,1825 USD/giạ, sau khi rơi xuống đáy 5 năm ở mức 5,04 USD/giạ; lúa mì đỏ cứng mùa Đông Kansas (KWU25) tăng 10 cent lên 5,2105 USD/giạ; lúa mì Xuân Minneapolis (MWEU25) tăng 5 cent lên 5,74 USD/giạ.
Trên Euronext, hợp đồng kỳ hạn tháng 9 tiến sát đáy tuần, trong khi kỳ hạn tháng 12 thiết lập mức thấp mới. Một phần lực mua bù bán khống giúp giá tạm giữ được hỗ trợ, song áp lực cung vẫn lớn trước báo cáo cung - cầu hàng tháng của USDA, đặc biệt khi thị trường theo sát khả năng điều chỉnh dự báo sản lượng ngô và đậu tương.
Tại Nga, công ty IKAR nâng dự báo sản lượng lúa mì 2025, củng cố kỳ vọng thu hoạch khả quan hơn ban đầu tại quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới. Ở Pháp, Bộ Nông nghiệp tăng ước tính vụ lúa mì chính, cho thấy sự phục hồi mạnh so với năm trước, dù sản lượng ngô có thể giảm do thời tiết nóng và khô. FranceAgriMer cho biết, nông dân đã hoàn thành 94% thu hoạch lúa mì mềm.
Giá ngô kỳ hạn CBOT giảm trong phiên cuối tuần qua, với hợp đồng ngô tháng 12 (CZ25) giảm 1,05 cent về 4,0505 USD/giạ. Hợp đồng này dao động mạnh cả ngày khi giới giao dịch cân nhắc giữa nhu cầu cải thiện và nguồn cung dồi dào. Điều kiện thời tiết thuận lợi tại Mỹ cho thấy triển vọng mùa vụ ngô và đậu tương khả quan, gây áp lực giảm giá.
Tuy nhiên, mức giá thấp đã thúc đẩy mua vào, thể hiện qua các hợp đồng xuất khẩu ngô gần đây sang Mexico, Guatemala và một số điểm đến chưa xác định. Hoạt động mua bù bán khống cũng góp phần hỗ trợ thị trường trước thềm báo cáo của USDA. Cơ quan này xác nhận Mỹ đã bán 125.000 tấn ngô cho một khách hàng chưa xác định, giao trong niên vụ 2025-2026. Các nhà phân tích dự báo, USDA sẽ nâng ước tính sản lượng trong báo cáo ngày 12/8/2025.
Giá đậu tương kỳ hạn tại Chicago tiếp tục giảm khi thị trường hướng sự chú ý đến báo cáo cung cầu tháng 8 của USDA, dự kiến công bố vào ngày 12/8/2025. Kỳ vọng nguồn cung lớn cùng điều kiện thời tiết thuận lợi tại Mỹ, tạo sức ép lên giá. Dù vậy, mức giá thấp hơn đã khuyến khích nhu cầu mua hạt có dầu của Mỹ.
Chốt phiên, hợp đồng đậu tương tháng 11 (SX25) giảm 6,25 cent về 9,8705 USD/giạ; giá bột đậu tương tháng 9 (SMU25) tăng 0,50 USD lên 276,60 USD/tấn ngắn, trong khi dầu đậu tương tháng 9 (BOU25) giảm 0,79 cent về 52,71 cent/pound.
Nguyên liệu công nghiệp: Cà phê bật mạnh, đường nhích tăng, ca cao và cao su biến động trái chiều
Trên sàn ICE, giá cà phê tương lai đảo chiều tăng vào phiên cuối tuần (8/8), khép lại tuần với mức tăng 8%. Hợp đồng cà phê Arabica (KC1!) tăng 11,55 xu (+ 3,9%) lên 3,0935 USD/pound sau khi chạm đỉnh 3 tuần là 3,0995 USD/pound. Tương tự, cà phê Robusta (RC2!) tăng 3,9% lên 3.510 USD/tấn.
Giá cà phê Arabica tăng chủ yếu đến từ tình trạng thương mại giữa Mỹ và Brazil gần như đóng băng sau khi chính quyền Trump áp thuế 50% với hàng hóa Brazil.
Nguồn hàng hiện được nhập khẩu chủ yếu là cà phê bốc xếp tại Brazil trước thời hạn nộp thuế ngày 6/8/2025 và đến Mỹ trước ngày 6/10.2025 để được miễn thuế. Mỹ hiện nhập khoảng 1/3 lượng cà phê từ Brazil, trong khi tồn kho được chứng nhận ICE (KC-TOT-TOT) đã xuống mức thấp nhất hơn 1 năm. Ngoài ra, việc quyền chọn Arabica đáo hạn hôm thứ Sáu (8/8) cũng hỗ trợ giá.
Trong khi đó, giá ca cao London (C2!) nhích tăng 6 pound (+0,1%) lên 5.415 pound/tấn và tăng 1% trong tuần. Ngược lại, ca cao New York (CC2!) giảm 1% về 7.978 USD/tấn trong phiên 8/8, nhưng vẫn tăng 6% cả tuần nhờ biến động tỷ giá hỗ trợ.
Tương tự, giá đường thô (SB1!) tăng 0,24 cent (+1,5%) lên 16,25 cent/pound, nhưng cả tuần chỉ tăng 0,4%. Đường trắng (SF1!) tăng 1,8% lên 471 USD/tấn.
Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), chỉ số giá đường đã giảm tháng thứ 5 liên tiếp trong tháng 7, do dự báo sản lượng tại Brazil và Ấn Độ tăng, dù nhu cầu nhập khẩu có dấu hiệu phục hồi.
Các đại lý vẫn thận trọng trước lo ngại về ATR - hàm lượng đường trong mía của Brazil cho vụ mùa 2025-2026. Bên cạnh đó, Tòa án Hiến pháp Pháp đã chặn việc tái sử dụng một loại thuốc trừ sâu bị cho là gây hại cho ong.
Tại Nhật Bản, trong phiên 8/8/, giá cao su RSS3 trên sàn Tocom biến động không đồng nhất tại các kỳ hạn giao hàng, cụ thể: Kỳ giao hàng tháng 9/2025 giảm 3,3 JPY/kg; kỳ giao hàng tháng 10/2025 tăng nhẹ 0,9 JPY/kg; kỳ giao hàng tháng 11/2025 ở mức 317,5 JPY/kg; kỳ hạn giao hàng tháng 12/2025 tăng 0,3 JPY/kg...
Tại Trung Quốc, giá cao su kỳ hạn tháng 8 trên sàn SHFE đóng cửa phiên cuối tuần qua giảm 95 CNY (-0,7%) mức 14.365 CNY/tấn.
Tại Malaysia, giá cao su tiêu chuẩn SMR 20 tăng 4 sen lên 724 sen/kg, trong khi giá latex rời giảm 1,5 sen xuống 565,50 sen/kg.
Theo Bernama, giá cao su Malaysia vẫn được hỗ trợ bởi đà phục hồi của giá dầu thô. Nguyên nhân là lo ngại gián đoạn nguồn cung khi Tổng thống Mỹ Donald Trump đe dọa áp thuế lên hàng hóa Ấn Độ vì tiếp tục mua dầu từ Nga.
Giá dầu là yếu tố ảnh hưởng lớn đến cao su do cạnh tranh trực tiếp giữa cao su tự nhiên và cao su tổng hợp sản xuất từ dầu mỏ. Việc giá dầu tăng giúp cao su tự nhiên bớt áp lực cạnh tranh về giá.
Tuy nhiên, triển vọng kinh tế toàn cầu còn nhiều bất ổn, đặc biệt liên quan đến chính sách thương mại của Mỹ, khiến đà tăng bị giới hạn. Thâm hụt thương mại của Mỹ trong tháng 6 đã thu hẹp nhờ giảm mạnh nhập khẩu hàng tiêu dùng, trong khi thâm hụt với Trung Quốc giảm xuống mức thấp nhất hơn 21 năm cho thấy tác động lớn từ chính sách thuế quan của Washington.
(Nguồn: Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Thời báo Tài chính Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập)
(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).