Ảnh Internet

Ảnh Internet

Thị trường hàng hóa tuần từ 29/4-6/5: Giá dầu bật mạnh, kim loại đồng loạt đi xuống

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 29/4-6/5, thị trường hàng hóa thế giới chứng kiến giá dầu thô bật mạnh, đi ngược với mức giảm đồng loạt của giá kim loại, trong khi những nhóm mặt hàng khác biến động trái chiều.

Năng lượng: Giá dầu và khí tự nhiên tăng, than biến động trái chiều

Giá dầu tăng tuần thứ 2 liên tiếp do lệnh trừng phạt của EU đối với dầu thô của Nga làm gia tăng nguy cơ nguồn cung bị thắt chặt và lo ngại về tăng trưởng kinh tế toàn cầu.

Cụ thể, kết thúc phiên cuối tuần qua 6/5, giá dầu thô Brent tăng 1,49 USD (+1,3%) lên 112,39 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1,51 US cent (+1,4%) lên 109,77 USD/thùng. Tính cả tuần, dầu WTI tăng 5% và dầu Brent tăng gần 4%.

Giá khí tự nhiên tại Mỹ quay đầu giảm mạnh trong phiên 6/5, lùi khỏi mức cao nhất 13 năm xác lập trong phiên trước đó do dự báo sản lượng tăng, thời tiết ôn hòa hơn và nhu cầu trong 2 tuần tới giảm.

Cụ thể, hợp đồng khí tự nhiên kỳ hạn tháng 6/2022 trên sàn New York giảm 74 US cent (-8,4%) xuống 8,043 USD/mmBTU, mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 2/2022. Tuy nhiên, tính cả tuần, giá vẫn tăng 11%.

Trên thị trường than, giá than tại Nam Phi giảm mạnh xuống 280 USD/tấn do căng thẳng thị trường toàn cầu. Pakistan, nhà nhập khẩu lớn thứ hai của Nam Phi sau Ấn Độ, bắt đầu giảm nhập khẩu nguyên liệu của Nam Phi do chi phí cao và quyết định chọn than từ Afghanistan và Tajikistan.

Tại Trung Quốc, giá than hàm lượng 5500 NAR giao ngay giảm 13 USD/tấn xuống còn 178 USD/tấn FOB Qinhuangdao. Báo giá than tại thị trường nội địa được điều chỉnh trong bối cảnh các nhà chức trách tuyên bố Trung Quốc sẽ không áp thuế nhập khẩu than từ 1/5/2022 đến 31/3/2023 để kích thích phát triển kinh tế. Với mục đích tương tự, Trung Quốc có kế hoạch tăng công suất sản xuất than thêm 300 triệu tấn vào năm 2022. Áp lực lên giá tiếp tục được tạo ra bởi áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt do Covid-19, góp phần làm giảm nhu cầu.

Chỉ số than Úc tăng lên trên 355 USD/tấn. Giá cũng được hỗ trợ bởi nhu cầu mới từ Nhật Bản và Hàn Quốc. Nhu cầu tăng đối với than luyện cốc của Úc từ các nhà máy thép ở EU và châu Á - Thái Bình Dương, báo giá than luyện kim của Úc tăng trên 515 USD/tấn, bên cạnh được hỗ trợ bởi thời tiết mưa lớn ở bang Queensland.

Giá than hàm lượng 5900 GAR của Indonesia tăng do nhu cầu tăng từ Ấn Độ, nơi tồn kho tại 165 nhà máy nhiệt điện than đã giảm 4% trong tuần qua và đang ở mức thấp nhất 9 năm. Ngoài ra, Bộ trưởng Năng lượng Ấn Độ kêu gọi nhập khẩu than nhiều hơn trong 3 năm tới, mặc dù biện pháp này có thể chỉ là tạm thời và được coi là giải pháp cho sự thiếu hụt trong bối cảnh nhu cầu điện năng tăng cao, xuất phát từ nhiệt độ tăng cao và hoạt động công nghiệp gia tăng.

Kim loại: Đồng loạt giảm giá

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tăng do USD giảm, song triển vọng tăng lãi suất từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) khiến vàng có tuần giảm thứ 3 liên tiếp, trong khi palađi giảm hơn 8% do lo ngại nhu cầu.

Cụ thể, giá vàng giao ngay trong phiên 6/5 tăng 0,3% lên 1.882,78 USD/ounce, vàng kỳ hạn giao sau tăng 0,4% lên 1.882,8 USD/ounce. Tính chung cả tuần, giá giảm 0,7%.

USD giảm 0,2% khiến vàng rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác, nhưng đà tăng của giá vàng bị hạn chế bởi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng.

Trong khi đó, giá palladium phiên này giảm 6,3% xuống 2.049,13 USD/ounce, trong phiên có lúc giảm xuống mức 2.002 USD/ounce - thấp nhất kể từ tháng 1/2022 ) và cả tuần giá giảm 12%.

Được sử dụng trong ống xả của xe để hạn chế khí thải, kim loại này đã giảm giá gần 11% từ đầu quý II/2022 đến nay, sau khi chạm mức cao nhất mọi thời đại vào đầu tháng 3/2022 ở mức 3.440,76 USD/ounce do lo ngại cuộc chiến ở Ukraine có thể làm giảm nguồn cung từ nhà sản xuất chủ chốt Nga.

Về những kim loại quý khác, giá bạc cũng giảm 0,8% xuống 22,32 USD/ounce, bạch kim giảm khoảng 2% xuống 962 USD/ounce.

Ở nhóm kim loại công nghiệp, giá nhôm giảm xuống mức thấp nhất 4 tháng trong phiên 5/6 do lo ngại về triển vọng nhu cầu khi hoạt động sản xuất chậm lại, đặc biệt tại Trung Quốc - nước tiêu thụ hàng đầu thế giới.

Cụ thể, trên Sàn giao dịch London (LME), giá nhôm kỳ hạn giao sau 3 tháng giảm 2,5% xuống 2.842 USD/tấn. Trước đó, giá kim loại được sử dụng rộng rãi trong ngành điện, xây dựng và đóng gói này đã chạm mức 2.832 USD, mức thấp nhất kể từ ngày 5/1/2022. Tính cả tuần, nhôm ghi nhận tuần giảm thứ 6 liên tiếp. Tính từ đầu tháng 3/2022 đến nay, giá nhôm giảm 30%.

Về các kim loại cơ bản khác, giá đồng giảm 0,8% xuống 9.410 USD/tấn; kẽm giảm 3,5% xuống 3.768 USD/tấn; chì giảm 1,7% xuống 2.238 USD/tấn; thiếc giảm 2,6% xuống 39.455 USD/tấn và nickel ít thay đổi, ở mức 30.020 USD/tấn.

Dự trữ đồng trong các kho có đăng ký của sàn LME hiện ở mức 170.025 tấn, tăng gần 3 lần trong vài tháng qua, cũng là mức cao nhất kể từ tháng 10/2021.

Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên và Singapore giảm hơn 5% trong phiên 6/5, trong bối cảnh Trung Quốc tăng cường các biện pháp cứng rắn để chống Covid-19 khiến các thương nhân thận trọng hơn.

Cụ thể, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2022 trên sàn Đại Liên đảo chiều giảm 5,1% xuống 825 CNY (123,47 USD)/tấn, sau 4 phiên tăng; giá quặng sắt kỳ hạn tháng 6/2022 trên sàn Singapore giảm 5,4% xuống 137,45 USD/tấn và có tuần giảm thứ 5 liên tiếp.

Giá quặng sắt hàm lượng 62% Fe giao ngay vào Trung Quốc ở mức 144,5 USD/tấn, không thay đổi so với tuần trước đó. Tính từ đầu năm đến nay, giá quặng sắt giao ngay tăng 18%.

Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây, thép cuộn cán nóng và thép không gỉ đều giảm 3,7% mỗi loại.

Nông sản: Giá ngô và đậu tương cùng giảm, lúa mì đi lên

Đóng cửa phiên 6/5, giá các mặt hàng nông sản kỳ hạn trên sàn giao dịch Chicago (Mỹ, CBOT) biến động trái chiều, với giá ngô và đậu tương giảm, trong khi giá lúa mỳ tăng. Giá ngô và đậu tương Mỹ giảm do lãi suất tăng và áp lực tiền tệ đè nặng lên xuất khẩu của Mỹ. Cùng với đó, dự báo thời tiết khô và ấm khu vực Trung Tây Mỹ làm gia tăng về triển vọng năng suất cây trồng tại khu vực này.

Cụ thể, giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2022 giảm 25 US cent xuống 16,22 USD/bushel; giá ngô cùng kỳ hạn giảm 12-3/4 US cent xuống 7,84-3/4 USD/bushel.

Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 7/2022 tăng 2 US cent lên 11,08-1/2 USD/bushel và cả tuần tăng xấp xỉ 5%.

Nguyên liệu công nghiệp: Đường tăng giá; cà phê, cao su và dầu cọ cùng giảm

Chốt phiên giao dịch 6/5, giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2022 trên sàn ICE tăng 0,38 US cent (+2%) lên 19,16 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8/2022 trên sàn London tăng 9 USD (+1,7%) lên 531,3 USD/tấn.

Các đại lý cho biết, thị trường đang được hỗ trợ bởi hoạt động mua ngắn hạn, cũng như triển vọng sản lượng ethanol ở Brazil tăng, khiến lượng mía dành cho sản xuất đường sẽ giảm.

Tuy nhiên, xuất khẩu tăng từ Ấn Độ được cho là đang ngăn giá đường tăng mạnh.

Trung Quốc dự kiến sẽ sản xuất thêm 400.000 tấn đường trong niên vụ 2022/23, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) cho biết.

Giá cà phê arabica giảm xuống mức thấp nhất gần 6 tháng trong phiên 6/5 do triển vọng kinh tế toàn cầu ảm đạm làm gia tăng dự đoán nhu cầu sẽ giảm. Cụ thể, cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2022 trên sàn ICE giảm 6,8 US cent (-3,1%) xuống 2,1045 USD/lb, trong phiên có lúc chạm mức 2,1 USD/lb - thấp nhất kể từ tháng 11/2021.

Tương tự, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2022 trên sàn London giảm 53 USD (-2,5%) xuống 2.083 USD/tấn, sau khi tăng lên mức cao nhất 5 tuần trong phiên trước đó (2.159 USD/tấn).

Tại Việt Nam, giá cà phê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên giảm 800 - 900 đồng xuống 40.200-40.700 đồng/kg.

Giá trị đồng reais của Brazil giảm xuống mức thấp nhất trong vòng hơn 1,5 tháng thúc đẩy đà bán mạnh các loại hàng hóa nông sản xuất khẩu để thu về được nhiều đồng nội tệ hơn. Trong khi đó, chỉ số đồng USD tiếp tục tăng khiến giá cả hàng hóa trở nên đắt đỏ, làm giảm sức mua từ các thị trường mới nổi.

Cuộc xung đột Nga - Ukraine kéo dài và Trung Quốc duy trì chính sách “Zero Covid” khiến nguy cơ kinh tế suy thoái ngày càng tăng, điều này sẽ dẫn tới sức tiêu thụ toàn cầu sụt giảm là điều khó tránh.

Giá cao su tại Nhật Bản giảm theo xu hướng giá tại thị trường Thượng Hải giảm trong phiên 6/5, trong khi giá tiêu dùng cốt lõi của Tokyo tăng với tốc độ hàng năm nhanh nhất trong 7 năm đã gây áp lực lớn cho thị trường.

Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 10/2022 trên sàn Osaka giảm 1,8 JPY (-0,7%) xuống 251,7 JPY (1,93 USD)/kg, nhưng cả tuần vẫn tăng 0,8%.

Trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2022 giảm 140 CNY xuống 12.745 CNY (1.907,48 USD)/tấn.

Giá tiêu dùng cốt lõi của Nhật Bản - chỉ số hàng đầu về xu hướng giá cả của nước này tăng 1,9% trong tháng 4/2022 so với cùng tháng năm ngoái.

Giá dầu cọ Malaysia giảm hơn 5% trong phiên 6/5 và có tuần giảm mạnh nhất trong 7 tuần do tồn trữ tính đến cuối tháng 4/2022 tăng mạnh.

Cụ thể, dầu cọ kỳ hạn tháng 7/2022 trên sàn Bursa (Malaysia) giảm 346 ringgit, (-5,12%) xuống 6.406 ringgit (1.466,58 USD)/tấn – cũng là phiên giảm thứ 2 liên tiếp. Tính chung cả tuần, giá dầu cọ giảm 9,8% - tuần giảm mạnh nhất kể từ ngày 18/3/2022.

Tồn trữ dầu cọ của Malaysia tính đến cuối tháng 4/2022 tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 1/2022, tăng 5,2% so với tháng trước đó lên 1,55 triệu tấn. Sản lượng dầu cọ dự kiến tăng 4,9% lên mức cao nhất 5 tháng (1,48 triệu tấn), trong khi xuất khẩu giảm 5,6% xuống 1,2 triệu tấn.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

Tin bài liên quan