Thích ứng với biến động của kỷ nguyên mới: Cần tầm nhìn dài hạn và chiến lược cụ thể

0:00 / 0:00
0:00
Những năm đầu của một kỷ nguyên mới, các vấn đề đang nổi lên là già hóa dân số, áp lực “chọn phe” và diễn tiến bất lợi do biến đổi khí hậu… Để thích ứng với những biến động này, Việt Nam cần có những chiến lược rõ ràng, tầm nhìn dài hạn, nhưng phải đủ cụ thể.
Xác định rõ những ngành công nghiệp mũi nhọn và có chiến lược cụ thể sẽ giúp Việt Nam đạt được mục tiêu đặt ra và thu hút đầu tư phát triển

Xác định rõ những ngành công nghiệp mũi nhọn và có chiến lược cụ thể sẽ giúp Việt Nam đạt được mục tiêu đặt ra và thu hút đầu tư phát triển

Nhận diện những biến động của kỷ nguyên mới

Dịp lễ 30/4 năm nay gần với một loạt sự kiện có tính bước ngoặt trên toàn cầu.

Thứ nhất, Ấn Độ chính thức vượt Trung Quốc, trở thành quốc gia đông dân nhất thế giới và Trung Quốc được cho là bắt đầu xu thế sụt giảm dân số. Theo các chuyên gia của Liên hợp quốc, từ nay đến năm 2050, dân số Trung Quốc dự kiến giảm gần 110 triệu người (giảm gấp 3 lần mức dự đoán vào năm 2019). Xu thế già hóa và giảm dân số không chỉ là vấn đề của Trung Quốc, mà còn của nhiều quốc gia khác.

Thứ hai, lãi suất toàn cầu chính thức vượt qua ngưỡng 3% ở đa số các nền kinh tế chủ chốt, trong khi cách đây 1 năm chỉ quanh mức 1%. Lãi suất tăng gấp 3 lần, lạm phát lõi được dự báo sẽ duy trì một cách “lì lợm” trong thời gian dài hơn sẽ khiến nhiều hoạt động đầu tư đình trệ.

Thứ ba, rủi ro do biến đổi khí hậu gây ra sẽ ảnh hưởng ngày một nghiêm trọng đến thế giới, đặc biệt là các nước nghèo và khu vực ASEAN là một trong những nơi có rủi ro cao. Tại một hội thảo gần đây về hợp tác kinh tế của Anh với ASEAN, tôi đọc được một câu nhấn mạnh rằng “ASEAN là một trong những khu vực gặp nhiều rủi ro nhất trên trái đất”, khi đề cập rủi ro biến đổi khí hậu ở khu vực này, trong đó, rủi ro do bão tố, lũ lụt, ngập nước và lở đất là rủi ro hàng đầu, hạn hán cũng là một mối nguy thường trực, ảnh hưởng đến 15 - 25% dân số trong khu vực.

Thứ tư, là sự chậm đi, thậm chí có phần đảo ngược của tiến trình toàn cầu hóa đã mang lại tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong suốt hơn 3 thập niên vừa qua. Sự gia tăng cạnh tranh của Mỹ và Trung Quốc trong hầu hết các lĩnh vực chủ chốt đang dần hình thành một xu hướng mới, đó là các nền kinh tế chủ chốt bắt đầu “chọn phe”, với sự nổi lên của thuật ngữ “chuyển sản xuất đến những nước cùng phe” (friend-shoring).

Năm ngoái, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen đã sử dụng thuật ngữ “friend-shoring” để mô tả những nỗ lực tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu, sao cho các cơ sở sản xuất chủ chốt sẽ được đặt lại ở các quốc gia “thân thiện và đáng tin cậy”.

Đáp trả lại điều đó, Trung Quốc cũng nêu chiến lược “Sản xuất tại Trung Quốc 2025”, quyết tâm giảm sự phụ thuộc của Trung Quốc vào các nước khác. Những diễn tiến đầu năm 2023 cho thấy, Trung Quốc nghiêm túc với quan điểm này, đồng thời nỗ lực khiến nhiều nước chưa thân thiện với Mỹ gia tăng phụ thuộc vào nền kinh tế Trung Quốc, thậm chí nỗ lực phân hóa mối quan hệ giữa Liên minh châu Âu (EU) với Mỹ.

Kết quả là, thời kỳ tăng trưởng nhanh trước đây với nhiều nền kinh tế ở khu vực châu Á sẽ khó lặp lại trong thập kỷ tới, trong đó có nhiều đối tác thương mại chủ chốt của Việt Nam.

Thời kỳ dân số vàng của một số nền kinh tế trong khu vực này, trong đó có Việt Nam, đang dần đi qua. “Cổ tức dân số vàng” - khái niệm nói về tăng trưởng kinh tế do dân số tăng trưởng lành mạnh đi cùng với năng suất lao động tăng theo - lợi thế do dân số tạo ra giảm dần, lợi ích do toàn cầu hóa mang lại sụt giảm, lãi suất cao, áp lực an sinh xã hội tăng lên với sự già hóa của dân số, biến đổi bất lợi của môi trường và những cam kết phát thải bằng 0 sẽ tạo ra nhiều rủi ro cũng như cơ hội.

Với biến đổi khí hậu, chúng ta thường thấy cả hai khái niệm rủi ro do biến đổi khí hậu (climate risk) và cơ hội do biến đổi khí hậu (climate opportunities). Tương tự như vậy với xu thế “chọn phe” của Trung Quốc và Mỹ. Có thay đổi, thì có cả nguy và cơ; quan trọng là làm sao nắm bắt được nó.

Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam cần một chiến lược toàn diện để cải cách nền kinh tế, nhằm thích ứng với những thay đổi của một kỷ nguyên mới, rất khác với hơn 3 thập niên trước đây. Chiến lược này phải nhắm đến hạn chế bất lợi và tận dụng cơ hội do những thay đổi của kỷ nguyên mới tạo ra.

Đâu rồi một chiến lược dài hạn?

Trong khuôn khổ một bài viết, tôi chỉ xin lấy câu chuyện về chiến lược công nghiệp làm ví dụ, vì mục tiêu mà chúng ta hướng tới đã lâu là trở thành một nước công nghiệp tiên tiến.

Cách đây khoảng một tháng, trong buổi tư vấn ngắn cho một ngân hàng ở Singapore về tình hình kinh tế Việt Nam, một người tham dự hỏi tôi rằng: “Theo ông, Chính phủ Việt Nam sẽ tập trung vào ngành công nghiệp mũi nhọn nào để phát triển trong 5 năm tới”?

Tôi đã bối rối, vì dường như chúng ta có nhiều mũi nhọn quá. Tôi nhận ra, nhà đầu tư nước ngoài cần một chiến lược có tầm nhìn dài hạn và cụ thể để họ tính toán “xuống tiền”, trong khi nước ta dường như vẫn thiếu điều đó.

Đầu năm 2022, tôi rất ngạc nhiên khi đọc được đoạn sau đây do Giáo sư Trần Văn Thọ viết: “Sự việc thứ hai, hôm 17/11, tôi nhận được yêu cầu từ Bộ Công thương nhờ góp ý về dự thảo liên quan chính sách công nghiệp bắt đầu xây dựng. Tìm hiểu, tôi ngạc nhiên khi được biết, đây là lần đầu tiên, một bộ chính sách về công nghiệp hoàn chỉnh được chuẩn bị, trong khi Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nước công nghiệp tiên tiến vào năm 2045”.

Như vậy, đến cuối năm 2021, chúng ta mới bắt đầu có dự thảo liên quan đến chính sách công nghiệp!

Và từ đó tới nay, tôi thấy có rất ít những bước đi cụ thể để thể hiện rõ, đâu là một số ít thế mạnh về công nghiệp chủ chốt mà chúng ta muốn hướng tới.

Thay vào đó, từ năm ngoái tới nay, tôi thấy, đa số các thảo luận về chính sách xoay quanh những câu chuyện phản ứng ngắn hạn với thị trường bất động sản, trái phiếu, bảo hiểm. Sử dụng một phần mềm theo dõi tin tức và mạng xã hội, tôi nhận ra rằng, trên 37% tin tức chủ chốt được thảo luận và xem nhiều trong 2 tuần gần đây, trước dịp lễ 30/4, vẫn liên quan tới giảm lãi suất, chính sách bất động sản và hầu như không có một tin tức nào nói đến những định hướng dài hạn của nền kinh tế.

Chúng ta dường như đang phản xạ có điều kiện với những biến động kinh tế, hơn là chủ động làm chủ và nắn dòng vốn trong nền kinh tế một cách chủ động.

Ngay cả sau việc TP.HCM công bố số liệu tăng trưởng kinh tế rất thấp trong nhiều năm và liên tục có nhiều thảo luận liên quan, đa số các thảo luận cũng chỉ tập trung nói về những khó khăn, giải pháp tháo gỡ, hay cơ chế đặc thù mà TP.HCM cần có, nhưng lại không thấy có nhiều thảo luận chỉ ra rõ ràng rằng, TP.HCM sẽ phải nhắm vào lĩnh vực chủ chốt nào, cần đầu tư mạnh vào mũi nhọn cụ thể nào.

Việt Nam cần một chiến lược toàn diện để cải cách nền kinh tế, nhằm thích ứng với những thay đổi của một kỷ nguyên mới, rất khác với hơn 3 thập niên trước đây. Chiến lược này phải nhắm đến hạn chế bất lợi và tận dụng cơ hội do những thay đổi của kỷ nguyên mới tạo ra.

Chúng ta không có một định hướng và lựa chọn cụ thể, do đó, những người đi ra quốc tế để marketing hình ảnh của Việt Nam sẽ gặp khó khăn, vì không biết phải trả lời ra sao với những câu hỏi như: “Cụ thể, đâu là thế mạnh của Việt Nam về công nghiệp?”, “Trong 5 - 10 năm tới, đâu sẽ là 3 lĩnh vực chủ chốt mà Chính phủ hướng tới?”.

Trong khi đó, nhiều nước có định hướng rất cụ thể. Ví dụ, đọc về chiến lược công nghiệp của Anh, có thể thấy rõ những ngành được chú trọng gồm: công nghệ hàng không, trí tuệ nhân tạo, công nghệ xe hơi mới, xây dựng, công nghiệp sáng tạo, khoa học sự sống (life science), hạt nhân và điện gió ngoài khơi.

Nếu là một nhà đầu tư ở Anh, hay một người đi quảng bá đầu tư vào nước này, tôi sẽ rất dễ dàng trả lời và lấy ví dụ, nhờ sự cụ thể của chiến lược và các kế hoạch đầu tư dài hạn của Chính phủ; đồng thời cũng rất dễ dàng chỉ ra, đầu tư vào đâu, lĩnh vực nào thì sẽ dễ được ưu đãi hay tiếp cận vốn ở Anh.

Ở Việt Nam cũng có những tên ngành công nghiệp mũi nhọn được nhắc tới, nhưng những khái niệm như “công nghệ cao”, “năng lượng mới”, “chuyển đổi số” còn khá mơ hồ. Quan trọng hơn, không có một cam kết hay chương trình cụ thể (chi bao nhiêu tiền, mục tiêu là gì…) được chỉ ra. Nhiều ngành được gọi là “mũi nhọn”, nhưng chương trình cụ thể dành cho các “mũi nhọn” đó là gì, thì không thấy được nhấn mạnh. Nhà đầu tư nước ngoài cần những thông tin cụ thể, thậm chí là so sánh với đối thủ cùng khu vực, để thuyết phục được họ bỏ tiền đầu tư ở Việt Nam thay vì nước khác.

Cụ thể hơn, những câu hỏi như: “Đâu là mũi nhọn công nghiệp cụ thể của Việt Nam”, “Đâu là hướng đi của TP.HCM”, “Chính phủ, ngân hàng và những doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam sẽ ủng hộ đầu tư vào những công nghệ mới nào”… cần được làm rõ và truyền thông rõ ràng.

Trên đây chỉ mới là một câu chuyện về công nghiệp. Những vấn đề khác như biến đổi khí hậu, đối diện với già hóa dân số… đều cần những chiến lược rõ ràng, có tầm nhìn dài hạn, nhưng phải đủ cụ thể, không chung chung kiểu như “tất cả đều là mũi nhọn”.

Đổi mới để thích ứng với một kỷ nguyên mới là điều bắt buộc do biến động của thời đại tạo ra. Để chủ động đổi mới và làm chủ xu thế, cần có tầm nhìn dài hạn, nhưng đồng thời cũng phải có những chiến lược cụ thể.

Rất nhiều ngành “thời thượng” không có trong danh sách những ngành được chú trọng trong chiến lược công nghiệp của nước Anh, vì nước này không có lợi thế về những ngành đó.

Ví dụ, với ngành công nghệ năng lượng thay thế, nước Anh chấp nhận để nước ngoài làm, hoặc doanh nghiệp Anh đầu tư ở nước ngoài thực hiện và họ chỉ tập trung vào điện gió ngoài khơi. Đặc biệt, ngành khoa học sự sống được dành rất nhiều nội dung hướng vào các thỏa thuận hỗ trợ của Chính phủ và thuận lợi cho các doanh nghiệp ở Anh “làm deal” (thỏa thuận giao dịch kinh doanh) với thị trường tài chính trong lĩnh vực này.

Tin bài liên quan