Chỉ riêng khu công nghệ cao TP. HCM, Nidec đã có 5 nhà máy, vốn đầu tư 250 triệu USD.

Chỉ riêng khu công nghệ cao TP. HCM, Nidec đã có 5 nhà máy, vốn đầu tư 250 triệu USD.

Thời của các đại gia công nghệ

Khởi điểm với Intel, sau đó là Samsung, General Electric (GE), thêm Jabil Circuit Inc, Nidec, rồi đến Nokia, Fuji Xerox…, Việt Nam đang trở thành điểm dừng chân của các đại gia công nghệ hàng đầu thế giới.

Giấc mơ đã thành hiện thực

Đặt câu hỏi với ông Nguyễn Văn Đạo, Phó tổng giám đốc Công ty Samsung Vina, người đặt nền móng, người tham gia những dự án của Samsung tại Việt Nam ngay từ những ngày đầu, về việc Nhà máy Sản xuất điện thoại di động Samsung Electronics Việt Nam (SEV) ở Bắc Ninh có bước phát triển ngoạn mục chỉ sau gần 4 năm đi vào hoạt động, giờ đã đứng thứ 4 trong top 5 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, ông cười rất tươi và không giấu được xúc động. “Dream comes true (giấc mơ đã thành hiện thực)”, ông Đạo nói.

Quả thực, chỉ cần nhìn vào kim ngạch xuất khẩu của riêng năm 2012 là 12,7 tỷ USD, bằng hơn 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đã có thể thấy sự bứt phá mạnh mẽ của SEV tại Việt Nam . Với vốn đầu tư ban đầu là 670 triệu USD và hiện giờ, đã đầu tư thêm 830 triệu USD để trở thành một Khu tổ hợp công nghệ - Samsung Complex, với tổng vốn đầu tư 1,5 tỷ USD, không ai có thể hoài nghi về hiệu quả đầu tư của tập đoàn hàng đầu Hàn Quốc này tại Việt Nam.

Trong khi đó, tuy không nổi đình, nổi đám như Samsung, song sự phát triển một cách lặng thầm của Nhà máy Sản xuất chipset của Intel, đại gia công nghệ đầu tiên đặt chân đến Việt Nam, để từ đó, tạo cú hích kéo các nhà đầu tư công nghệ khác vào theo, cũng đã góp phần tạo nên diện mạo mới cho thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam.

Đi vào sản xuất từ tháng 6/2010, đến tháng 7/2010, đã có sản phẩm chipset “Made in Vietnam” đầu tiên được xuất khẩu và đến cuối năm đó, Intel Products Việt Nam đã đạt giá trị xuất khẩu 120 triệu USD. Năm 2011, con số này là 450 triệu USD và cho tới thời điểm cuối tháng 10/2012, đạt giá trị xuất khẩu lũy kế hơn 1,5 tỷ USD. Theo khẳng định của Intel, thời gian tới, Công ty sẽ tìm cách tăng mức độ phức tạp của các công việc đang thực hiện tại Việt Nam .

Một cái tên khác - Nidec (Nhật Bản), nhà sản xuất động cơ cho ổ cứng lớn nhất thế giới, cũng đã được nhắc tới rất nhiều trong thời gian gần đây. Vào giữa tháng 10/2012, Nidec đã khởi công xây dựng nhà máy sản xuất linh phụ kiện trong hộp số ô tô tại tỉnh Bến Tre, với tổng vốn đầu tư khoảng 39,6 triệu USD. Theo kế hoạch, nhà máy này sẽ được đưa vào sản xuất khoảng tháng 9/2013 và toàn bộ sản phẩm sẽ được xuất khẩu.

Điều đáng nói là, chỉ trước đó 3 tháng, Nidec cũng đã nhận giấy chứng nhận đầu tư để thực hiện dự án thứ 5 - Nidec Seimitsu Việt Nam - của tập đoàn này tại Khu công nghệ cao TP.HCM. Theo kế hoạch, Nidec Seimitsu Việt Nam sẽ sản xuất và kinh doanh mô tơ rung siêu nhỏ dùng trong điện thoại di động. Với tổng vốn đầu tư 45 triệu USD, điểm đặc biệt của nhà máy này là sẽ triển khai đồng bộ và hoàn chỉnh cả dây chuyền sản xuất sản phẩm mô tơ chính xác. Từ nguyên liệu đầu vào là kim loại, Nidec Seimitsu sẽ tự sản xuất các linh kiện, thực hiện các công đoạn gia công chính xác và chế tạo thành sản phẩm mô tơ hoàn chỉnh.

Với nhà máy thứ 5 này, chỉ riêng vốn đầu tư của Nidec tại Khu công nghệ cao TP.HCM đã lên khoảng 250 triệu USD. 

Và không chỉ Intel, Samsung hay Nidec, thời gian gần đây, liên tiếp các thông tin về việc các nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghệ tăng đầu tư vào Việt Nam . Jabil Circuit, GE (Mỹ) là một ví dụ. Fuij Xerox hay Kyocera (Nhật Bản) cũng vậy. Thêm cả Nokia (Phần Lan), Robert Bosch (Đức)...

Sự có mặt ngày càng đông đảo của các công ty công nghệ nước ngoài, có thể nói, đã góp phần tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng điện thoại, điện tử của Việt Nam trong năm qua. Số liệu chính thức của Tổng cục Hải quan cho thấy, năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng điện thoại di động và linh kiện là 12,72 tỷ USD, tăng 98,8% so với năm trước. Và tất nhiên, ai cũng hiểu, gần như 100% con số này là đóng góp của Samsung. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng điện tử, máy vi tính và linh kiện là 7,84 tỷ USD và công đầu thuộc về khối doanh nghiệp FDI.

Với những kết quả này, có thể nói, không chỉ riêng giấc mơ của Samsung tại Việt Nam trở thành hiện thực, mà theo GS-TSKH. Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp FDI Việt Nam, điều mà Việt Nam mong chờ bao lâu nay cũng đã hiển hiện trước mắt. “Điều này chứng tỏ, Việt Nam đang đi đúng hướng trong ưu tiên thu hút đầu tư vào công nghệ cao. Ngay từ khi bắt đầu thu hút FDI, chúng ta đã đặt mục tiêu tăng cường xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng chế tạo, công nghệ cao và bây giờ, những kết quả đạt được thật đáng vui mừng”, ông Mại nói.

 

Công nghệ cao hay chỉ là lắp ráp?

Có một câu hỏi luôn được đặt ra sau mỗi thông tin về việc các nhà đầu tư nước ngoài tăng cường đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao, đó là họ sẽ đầu tư công nghệ cao thực sự, hay chỉ là gia công, lắp ráp? Một câu hỏi tương tự, đó là giá trị gia tăng mà Việt Nam thu được là bao nhiêu sau mỗi hợp đồng xuất khẩu?

Một câu hỏi không sai, nếu dựa trên kỳ vọng của cả đất nước về một nền sản xuất tiên tiến, hiện đại, giá trị gia tăng cao. Và cũng không hẳn không có lý khi trên thực tế, tỷ lệ nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất các mặt hàng điện tử, điện thoại di động vẫn ở mức cao.

Song một cách thẳng thắn, trao đổi với Báo Đầu tư, ông Nguyễn Văn Đạo cho rằng, trước khi đưa ra những câu hỏi như vậy, thì hãy đặt những câu hỏi ngược lại. Đó là Việt Nam đã sẵn sàng hay chưa? “Nếu đòi hỏi nhà đầu tư phải tăng cường nội địa hóa, vậy Việt Nam đã có được nguồn nhân lực để ‘nội địa hóa’ chưa? Đã có nền công nghiệp phụ trợ để đáp ứng nhu cầu linh kiện của nhà đầu tư? Và liệu có nhân lực đủ trình độ để tham gia các trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) hay không?”, ông Đạo nói.

Đây rõ ràng là một thực tế mà Việt Nam đang phải đối mặt. Chỉ nói riêng về chất lượng nguồn nhân lực, thì phải thừa nhận là chưa thể đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư. Một chuyên gia trong lĩnh vực này đã từng nói, muốn thu hút FDI, Việt Nam phải có những cam kết về việc cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho nhà đầu tư, tránh tình trạng để họ “tự bơi” như Intel trước đây.

Trong khi đó, ông Christopher Twomey, Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Mỹ tại Việt Nam (AmCham) cũng lo ngại về quá trình chuyển đổi không thành công từ các doanh nghiệp FDI chuyên sản xuất hàng tiêu dùng có giá trị thặng dư thấp sang doanh nghiệp FDI công nghệ cao, công nghệ hiện đại, chuyên sản xuất các mặt hàng có giá trị thặng dư cao để xuất khẩu ra thị trường thế giới. Và lý do là vì chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được. “Chính phủ Việt Nam cần có những hành động mạnh mẽ hơn để cải thiện và nâng cấp kỹ năng của người lao động”, ông Twomey khuyến cáo.

Nếu xét trên khía cạnh này, về tính sẵn sàng của Việt Nam , thì hẳn nhiên, chưa thể trả lời là có.

Có thể, chưa đạt được như kỳ vọng và trong tầm nhìn xa hơn, Việt Nam vẫn cần đặt ra những mục tiêu cao hơn trong thu hút FDI trong lĩnh vực công nghệ cao, nhưng rõ ràng, trong hiện tại, sự có mặt của các đại gia công nghệ tại Việt Nam là dấu ấn rất tích cực. Có Samsung, Intel, Nidec…, Việt Nam đã được tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn này. Thương hiệu Việt Nam , vì thế cũng được nâng lên một bậc. Các sản phẩm công nghệ “Made in Vietnam ” đi tới đâu, thương hiệu Việt Nam được “phủ sóng” tới đó.

Hơn thế, nếu nhìn lại thực tế thu hút FDI 25 năm qua, khi những bất cập vẫn tồn tại bởi một thời Việt Nam đã thu hút đầu tư bằng mọi giá, không có sàng lọc, nên nhiều dự án sử dụng công nghệ lạc hậu, hao tốn năng lượng và gây ô nhiễm môi trường…, thì những gì mà các đại gia công nghệ làm được hôm nay là rất đáng trân trọng.

Đặc biệt hơn, không chỉ đầu tư cho sản xuất, nhiều nhà đầu tư đã lên kế hoạch xây dựng các trung tâm R&D, một hoạt động đầu tư mang tính thượng nguồn, mà Việt Nam đã chờ đợi từ lâu. Samsung, Robert Bosch, GE... là ví dụ điển hình.

Và một điều không thể không nhắc tới, đó là trong sản xuất công nghiệp hiện nay, mỗi quốc gia sẽ tùy năng lực cạnh tranh và lợi thế so sánh của mình sẽ chỉ tham gia một công đoạn sản xuất nhất định. Cái này được gọi là phân công lao động quốc tế. Còn nếu đòi hỏi vừa thiết kế, vừa sản xuất linh kiện và lắp ráp ở một quốc gia, thì điều đó gần như là không thể, nhất là ở một đất nước có trình độ phát triển còn thấp như Việt Nam hiện nay. 

Sẽ tới thời điểm, công nghệ cao ở Việt Nam tiến thêm một bước phát triển cao hơn. Còn hiện tại, đã từng nghe nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan nói rằng, bất cứ ai, bất cứ quốc gia nào cũng cần có thời gian để phát triển, chứ không thể tự nhảy qua đầu mình ngay được.