Ông Đào Minh Tú - Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước

Ông Đào Minh Tú - Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước

Tiếp tục tạo thuận lợi trong tiếp cận vốn tín dụng

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Nhân dịp đầu Xuân Giáp Thìn 2024, ông Đào Minh Tú - Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước có cuộc trao đổi với Báo Đầu tư Chứng khoán về những định hướng trong điều hành tín dụng năm 2024.

Thưa Phó Thống đốc, năm 2023, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức đối với điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có những giải pháp gì để tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận vốn ngân hàng, qua đó hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế?

Có thể nói, năm 2023 là một năm kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam, phải đối mặt với rất nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Kinh tế thế giới tiếp tục tăng trưởng chậm, lạm phát tăng cao, thương mại toàn cầu sụt giảm, giá cả hàng hóa cơ bản biến động mạnh, xung đột địa chính trị, chính sách an ninh lương thực thắt chặt... Hầu hết các nước tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát (Cục Dự trữ Liên bang Mỹ - Fed tăng lãi suất 4 lần, hiện ở mức 5,25 - 5,5%/năm; Ngân hàng Trung ương châu Âu - ECB tăng 5 lần, hiện ở mức 4,25%/năm…), đồng USD quốc tế biến động mạnh, đồng tiền của nhiều nước mất giá mạnh…

Những tác động tiêu cực từ kinh tế thế giới cùng với những khó khăn nội tại đã khiến các động lực tăng trưởng xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng của Việt Nam đều bị ảnh hưởng, tạo áp lực rất lớn cho Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2023. Điều hành chính sách tiền tệ của NHNN cũng không ngoại lệ khi phải thực hiện đồng thời nhiều mục tiêu như kiểm soát lạm phát; ổn định tỷ giá, thị trường tiền tệ, giảm mặt bằng lãi suất để hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng..., trong khi thị trường chứng khoán, trái phiếu, bất động sản trong nước trầm lắng và gặp nhiều khó khăn nên vốn phục vụ phát triển sản xuất - kinh doanh cho nền kinh tế dựa chủ yếu vào kênh tín dụng ngân hàng.

Trong bối cảnh đó, nhiều giải pháp, chính sách, chương trình tín dụng đã được NHNN triển khai đồng bộ, quyết liệt, tập trung mọi nguồn lực để đảm bảo cung ứng đủ vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hơn 5% (là mức tăng cao trên thế giới), hỗ trợ doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn, phục hồi sản xuất - kinh doanh, trong đó đặc biệt là:

Thứ nhất, điều hành lãi suất theo hướng giảm mạnh để hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. Trong bối cảnh lãi suất thế giới neo cao, NHNN đã điều chỉnh giảm liên tục 4 lần các mức lãi suất với mức giảm 0,5 - 2%/năm. Đồng thời, chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) tiết giảm chi phí và áp dụng đồng bộ các biện pháp giảm mặt bằng lãi suất cho vay. Nhờ đó, mặt bằng lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới của các ngân hàng thương mại giảm hơn 2,5%/năm so với cuối năm 2022 và sẽ còn tiếp tục giảm trong thời gian tới. Đây là một nỗ lực rất lớn của hệ thống ngân hàng để chia sẻ khó khăn cùng với doanh nghiệp.

Thứ hai, mở rộng tín dụng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với định hướng tăng trưởng tín dụng khoảng 14 - 15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế, trong năm 2023, NHNN đã thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD với tổng mức là 14,5%. Trước tình hình tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ở mức thấp hơn kỳ vọng và không đồng đều giữa các TCTD, NHNN đã linh hoạt điều hòa chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng từ TCTD không sử dụng hết chỉ tiêu được giao sang các TCTD có khả năng tăng trưởng tín dụng cao hơn số đã được giao và tiếp tục điều hành để tăng trưởng tín dụng năm 2023 không vượt quá chỉ tiêu định hướng đầu năm, song vẫn đảm bảo dư địa, thanh khoản đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế và an toàn hệ thống TCTD.

Thứ ba, kịp thời ban hành chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ (Thông tư 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023) và chỉ đạo các TCTD triển khai quyết liệt chính sách này nhằm hỗ trợ trực tiếp khách hàng gặp khó khăn, tạo điều kiện cho khách hàng được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, kéo dài thời gian trả nợ mà không bị chuyển nhóm nợ xấu, được tiếp cận các khoản vay mới phục vụ sản xuất - kinh doanh, tiêu dùng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đây là một chính sách rất kịp thời trong thời điểm khó khăn, được cộng đồng doanh nghiệp, người dân và dư luận đánh giá rất cao, thể hiện sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt, đúng đắn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN và sự hỗ trợ, chia sẻ, đồng hành của ngành ngân hàng với doanh nghiệp, người dân.

Thứ tư, chỉ đạo các TCTD đơn giản hóa thủ tục, giảm bớt hồ sơ vay; gia tăng các chương trình, sản phẩm tín dụng đặc thù, ưu đãi, góp phần tháo gỡ khó khăn cho một số ngành, lĩnh vực như chương trình 120.000 tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ (tháo gỡ khó khăn cho lĩnh vực bất động sản); chương trình hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho một số mặt hàng nông sản chủ lực (lúa gạo Đồng bằng sông Cửu Long, thuỷ sản, cà phê); chương trình tín dụng cho công nhân theo thỏa thuận hợp tác giữa Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam và 2 công ty tài chính (HD Saison và FE Credit); chính sách hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP.

Thứ năm, tổ chức gần 450 cuộc gặp gỡ, đối thoại, kết nối ngân hàng - doanh nghiệp trên toàn quốc, một số vùng (Đông Nam Bộ, Tây Nguyên) và thành phố trọng điểm (Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Nguyên…), các hội nghị tín dụng chuyên đề (lĩnh vực bất động sản, doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, nông sản xuất khẩu chủ lực…) nhằm kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.

Thứ sáu, cùng với tín dụng thương mại, NHNN tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng Chính sách xã hội ổn định nguồn vốn nhằm đẩy mạnh tín dụng đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Đến nay, tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách tại Ngân hàng Chính sách xã hội đạt trên 325.000 tỷ đồng, tăng 14,92% so với năm 2022 với gần 6,8 triệu khách hàng còn dư nợ. Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi cũng được tập trung triển khai tích cực.

Có thể nói, mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức và chưa có tiền lệ, song với những giải pháp chủ động, linh hoạt, khéo léo, kết quả điều hành chính sách tiền tệ của NHNN đã cơ bản đạt được các mục tiêu đề ra và được các cấp, các ngành, các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và bạn bè quốc tế chia sẻ, ghi nhận và đánh giá tích cực.

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng năm 2024 là tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số và thanh toán không dùng tiền mặt

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng năm 2024 là tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số và thanh toán không dùng tiền mặt

Theo ông, đâu là nguyên nhân khiến tín dụng gặp khó trong năm 2023?

Quả thực, tăng trưởng tín dụng trong năm 2023 gặp nhiều khó khăn, do một số nguyên nhân chủ yếu sau:

Một là, do tác động của cầu đầu tư, sản xuất - kinh doanh, tiêu dùng giảm, dẫn tới cầu tín dụng của người dân, doanh nghiệp giảm theo.

Hai là, khả năng hấp thụ tín dụng của thị trường bất động sản suy giảm, trong khi dư nợ tín dụng bất động sản chiếm trên 21% tổng dư nợ tín dụng chung toàn nền kinh tế.

Ba là, thị trường vốn (chứng khoán, trái phiếu…) khó khăn do một số tập đoàn, doanh nghiệp phát hành, sử dụng trái phiếu không đúng quy định, làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư. Từ đó, nhu cầu vốn trung - dài hạn gây áp lực lên thị trường tiền tệ, vốn tín dụng ngân hàng, làm cho khả năng cân đối vốn ngắn hạn để cho vay trung - dài hạn tăng cao, nguy cơ rủi ro thanh khoản, rủi ro kỳ hạn gia tăng.

Bốn là, sau thời gian kinh tế gặp khó khăn, mức độ rủi ro của khách hàng bị đánh giá cao hơn khi hoạt động của doanh nghiệp khó chứng minh hiệu quả (chi phí đầu vào, nguyên vật liệu nhập khẩu cao, thị trường đầu ra, đơn hàng, doanh thu giảm...); TCTD rất khó khăn trong quyết định cho vay.

Năm là, một số nhóm khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn, nhất là nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc tiếp cận tín dụng của nhóm này còn hạn chế do: Quy mô vốn nhỏ, vốn chủ sở hữu và năng lực tài chính, quản trị điều hành hạn chế; thiếu phương án kinh doanh khả thi, chưa có kế hoạch ứng phó với biến động thị trường, khả năng liên kết với chuỗi sản xuất còn hạn chế. Đồng thời, thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa còn thiếu minh bạch làm ảnh hưởng đến khả năng thẩm định của TCTD để đánh giá thực chất tình hình tài chính, hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, việc triển khai các giải pháp tăng khả năng tiếp cận tín dụng thông qua các cơ chế hỗ trợ của Nhà nước (Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa...) còn chưa phát huy hiệu quả.

Xác định doanh nghiệp và ngân hàng có mối quan hệ cộng sinh nên ngành ngân hàng đã chủ động áp dụng đồng bộ rất nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp, người dân vay vốn. Với sự nỗ lực rất lớn của ngành ngân hàng, đến ngày 31/12/2023, tín dụng toàn nền kinh tế đạt khoảng 13,56 triệu tỷ đồng, tăng 13,71% so với cuối năm 2022, gần đạt mức định hướng tăng trưởng tín dụng 14 - 15% NHNN đề ra từ đầu năm.

Vậy những “nút thắt” về tín dụng sẽ được NHNN tháo gỡ ra sao trong năm 2024?

NHNN đã giao hết chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng 15% của năm 2024 ngay ngày cuối cùng của năm 2023 cho các TCTD và thông báo công khai nguyên tắc xác định để từng TCTD chủ động xây dựng kế hoạch, phương án tăng trưởng tín dụng.

Để thúc đẩy tín dụng, tăng khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế, ngay từ cuối năm 2023, NHNN đã đổi mới cơ chế điều hành mức tăng trưởng tín dụng. Theo đó, NHNN đã giao hết chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng 15% của năm 2024 ngay ngày cuối cùng của năm 2023 cho các TCTD và thông báo công khai nguyên tắc xác định để từng TCTD chủ động xây dựng kế hoạch, phương án tăng trưởng tín dụng.

Đồng thời, NHNN tiếp tục nghiên cứu, đề xuất, sửa đổi, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng trong thời gian tới; tiếp tục triển khai các chương trình, chính sách, giải pháp về tín dụng đã và đang thực hiện, tập trung cho các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ; thường xuyên tổ chức đối thoại, kết nối ngân hàng với doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp theo vùng và tại tất cả các địa phương nhằm tăng cường thông tin, tuyên truyền, nắm bắt nhu cầu, kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc trong quan hệ tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp.

Đối với các TCTD, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, cắt giảm các loại phí không cần thiết nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi và phát triển sản xuất - kinh doanh; khẩn trương rà soát các dự án, các doanh nghiệp để đảm bảo cung ứng tín dụng kịp thời cho các dự án khả thi, hiệu quả, hỗ trợ doanh nghiệp, khách hàng vay vốn vượt qua khó khăn để tiếp tục quay vòng vốn, trả nợ; tham gia các hội nghị kết nối ngân hàng - doanh nghiệp tổ chức tại các địa phương và chủ động tổ chức hội nghị khách hàng để giải quyết các khó khăn; tiếp tục đơn giản hóa các quy trình, thủ tục vay vốn, công khai phí, lãi suất… nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.

Bên cạnh các giải pháp của ngành ngân hàng, tôi cho rằng, cũng cần có sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành nhằm kích cầu đầu tư, tiêu dùng, thúc đẩy các động lực tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu, khai thác thị trường nội địa; cải thiện môi trường kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính; ổn định, khơi thông dòng vốn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp; xử lý các vấn đề tồn tại của thị trường bất động sản, thúc đẩy thị trường này phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững; nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; xử lý các tổ chức, cá nhân lợi dụng, trá hình kinh doanh tiền tệ bất hợp pháp (qua mạng và đòi nợ thuê)…

Về phía doanh nghiệp, rất cần thiết nâng cao năng lực, khả năng hấp thụ vốn thông qua các biện pháp tái cấu trúc hoạt động, nâng cao năng lực quản trị điều hành, xây dựng các phương án, dự án sản xuất - kinh doanh khả thi, minh bạch tình hình tài chính… để TCTD có cơ sở thẩm định, quyết định cho vay và tăng khả năng tiếp cận các nguồn vốn từ các kênh huy động khác (phát hành cổ phiếu, trái phiếu…).

Năm 2024, kinh tế thế giới và trong nước được dự báo sẽ còn đối mặt với nhiều thách thức, NHNN có định hướng gì trong giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, góp phần hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế, thưa ông?

Kinh tế thế giới năm 2024 dự báo tăng trưởng chậm với nhiều bất trắc, lạm phát dù đã có dấu hiệu qua đỉnh nhưng vẫn đang ở mức cao tại nhiều nước, không ít ngân hàng trung ương duy trì chính sách lãi suất cao, giá hàng hóa thế giới tiềm ẩn nguy cơ biến động mạnh. Ở trong nước, tăng trưởng kinh tế cũng đứng trước những rủi ro khi nhu cầu thế giới suy giảm tác động tiêu cực lên các ngành sản xuất, công nghiệp chế biến, chế tạo, áp lực lạm phát vẫn hiện hữu, các hoạt động đầu tư, tiêu dùng tăng chậm... Những diễn biến này sẽ tiếp tục tạo ra nhiều áp lực đối với điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2024.

Để tiếp tục ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống và góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ đề ra, toàn ngành ngân hàng sẽ tập trung triển khai một số giải pháp trọng tâm sau:

Một là, bám sát diễn biến kinh tế, tiền tệ trong và ngoài nước để điều hành chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ; phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, nhằm góp phần hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu khoảng 6 - 6,5%, gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát mục tiêu bình quân khoảng 4 - 4,5%.

Hai là, điều hành nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt, chủ động, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống TCTD; điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu chính sách tiền tệ; khuyến khích các TCTD tiếp tục tiết giảm chi phí, giảm mặt bằng lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất - kinh doanh.

Ba là, điều hành tỷ giá phù hợp với điều kiện thị trường, can thiệp thị trường khi cần thiết, phối hợp đồng bộ các biện pháp và công cụ chính sách tiền tệ để bình ổn thị trường ngoại tệ, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.

Bốn là, điều hành tín dụng hài hòa với diễn biến kinh tế vĩ mô nhằm góp phần hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hoạt động của các TCTD. Điều hành tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống các TCTD năm 2024 khoảng 15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Chỉ đạo TCTD hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, góp phần hạn chế “tín dụng đen”.

Năm là, tiếp tục triển khai Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025 nhằm nâng cao năng lực tài chính, quản trị của các TCTD, góp phần phát triển hệ thống các TCTD hoạt động lành mạnh, chất lượng, hiệu quả, công khai, minh bạch theo quy định của pháp luật và tiệm cận, đáp ứng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Trong đó, đẩy mạnh xử lý, thu hồi nợ xấu; tập trung thực hiện có hiệu quả phương án xử lý các TCTD yếu kém, triển khai cơ cấu lại các ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt theo chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền.

Sáu là, tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, đáp ứng yêu cầu đối với các mô hình kinh doanh và sản phẩm, dịch vụ mới trên nền tảng công nghệ thông tin, ngân hàng số, thanh toán số. Tăng cường bảo đảm an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán và chuyển đổi số.

Tin bài liên quan