Chưa thống nhất về cách hiểu
Theo tìm hiểu của ĐTCK, sở dĩ có sự khác nhau trong việc trích lập dự phòng các khoản đầu tư tài chính tại nhiều DN niêm yết như vừa qua là do cách hiểu không nhất quán Thông tư 13. Thông tư kể trên, về mặt kế toán không có gì vướng mắc, nhưng về tài chính có những điểm còn chưa rõ. Thông tư này quy định, chứng khoán được giao dịch tự do trên thị trường mới được trích lập dự phòng giảm giá. Thế nhưng định nghĩa thế nào là tự do? Đối với chứng khoán niêm yết thì đã rõ nhưng với chứng khoán chưa niêm yết vẫn rất mù mờ, nên chưa xác định được chứng khoán chưa niêm yết (hay còn gọi là OTC) có phải trích lập hay không? Không tự do có phải ám chỉ các cổ phiếu bị hạn chế chuyển nhượng hay chỉ những cổ phiếu được giao dịch trao tay, không có xác nhận của cơ quan quản lý? Theo Thông tư 13, những chứng khoán không được phép mua bán tự do trên thị trường thì không được trích lập dự phòng giảm giá.
Thứ hai là đối với chứng khoán OTC, điều kiện để trích lập là giá trị thị trường nhỏ hơn giá trị ghi sổ. Tuy nhiên, các cổ phiếu này không có thị trường chính thức nên khó xác định giá thị trường là giá nào.
Điểm thứ ba là cơ quan thuế các tỉnh, thành phố, mỗi đơn vị có cách hiểu khác nhau về giao dịch chứng khoán tự do. Có nơi hiểu thị trường OTC là trao đổi tự do nên phải được trích lập. Còn có nơi lại cho rằng, OTC không phải là tự do nên nếu thực hiện trích lập sẽ bị gạt ra, thậm chí bị cơ quan thuế xử phạt. Trong khi đó, việc trích lập liên quan đến lợi nhuận cũng như nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước của DN nên họ phải thực hiện theo ngành thuế!
Ứng xử ra sao?
Trao đổi với ĐTCK, phó tổng giám đốc một CTKT có vốn đầu tư nước ngoài cho biết, trong trường hợp không xác định được giá chứng khoán OTC để thực hiện trích lập dự phòng, nhằm đảm bảo tính khách quan, công ty ông yêu cầu DN tìm thông tin giá chứng khoán lập dự phòng, nhưng bản thân công ty cũng phải ra thị trường xem bảng giá và đối chiếu lại, với nhiều loại cổ phiếu không có giá nên không có cơ sở để lập dự phòng. Trong trường hợp không có giá như thế, theo thông lệ, trong bản thuyết minh báo cáo tài chính, DN phải nêu rõ những cổ phiếu chưa niêm yết không xác định được giá chính xác.
Thông tư 13 có nội dung nói về các khoản đầu tư dài hạn có thể trích lập dự phòng theo phương pháp lấy số lỗ của công ty mà nó đầu tư nhân (x) với tỷ lệ góp vốn. Đó là phương pháp trích lập theo giá trị ròng của khoản đầu tư. Để làm được điều này, DN phải biết giá trị tài sản ròng của các khoản đầu tư dài hạn là bao nhiêu. Nếu nắm một tỷ lệ vốn nhỏ tại công ty đó thì khó có thể yêu cầu DN này cung cấp báo cáo tài chính để biết được giá trị tài sản ròng. Đó là hạn chế rất lớn khi DN thực hiện trích lập dự phòng.
Về phía CTKT, điều quan trọng là khi chấp nhận khách hàng phải đánh giá ban lãnh đạo đó có tầm nhìn dài hạn hay mức độ chính trực của ban lãnh đạo DN cũng như quan điểm về xây dựng DN, về kinh doanh. Điều này chi phối việc tuân thủ các chuẩn mực kế toán của DN.
Ông Bùi Văn Mai, Tổng thư ký Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) cũng cho rằng, DN niêm yết cần nói rõ trong báo cáo thuyết minh về cách thức trích lập. Về nguyên tắc, DN phải thực hiện trích lập dự phòng các khoản đầu tư chứng khoán bị giảm giá, nhưng trên thực tế, tính toán có nhiều cách do có thông tin bổ sung, sự phán đoán tình hình cụ thể. Đối với các loại cổ phiếu OTC không xác định được giá, việc trích lập hoàn toàn do nhận định của chủ DN. Tuy nhiên, vẫn có thể trích lập dự phòng khi không xác định được giá chính xác. Ví dụ, đối với trích lập dự phòng hàng tồn kho thì có thể tính giá hàng hóa tương đương trên thị trường. Đối với cổ phiếu OTC thì so sánh với một DN tương tự đã niêm yết.
Ông Mai nhấn mạnh, điều quan trọng là khi tính toán như thế, DN phải giải trình cơ sở của việc tính toán để thuyết phục được người đọc báo cáo tài chính, bởi cùng với một mức dự phòng, có người nói đó là an toàn, nhưng cũng có người lại cho là thấp quá hoặc cao quá.
Được biết, hiện nhiều CTKT đã có công văn gửi về Cục Tài chính doanh nghiệp, Bộ Tài chính, yêu cầu làm rõ những quy định về căn cứ để DN trích lập dự phòng. Rất có thể, Thông tư 13 sẽ được sửa đổi do những vướng mắc nêu trên. Tuy nhiên, trong khi thời điểm công bố báo cáo tài chính kiểm toán theo quy định đã đến thì những vướng mắc kể trên vẫn đang đẩy DN niêm yết và CTKT vào thế khó.
Tổng giám đốc một CTKT (đề nghị không nêu tên) cho biết, theo chuẩn mực quốc tế, các chứng khoán đầu tư dài hạn giảm giá thì vẫn trích lập dự phòng nhưng phản ánh nó qua định giá lại vốn chủ sở hữu, mà không thể hiện qua báo cáo kết quả kinh doanh. Vì thế, nó không ảnh hưởng đến nguồn thu nhập của DN trong năm. Khi xuất hiện yếu tố có thể làm tổn thất về tài sản thì DN ghi nhận nó mà không làm ảnh hưởng đến thu nhập của năm tài chính. NĐT có thể thấy năm đó vẫn có lãi nhưng tài sản đã bị hao hụt do bị tổn thất đầu tư. Chuẩn mực của Việt Nam chưa quy định điều này nên không chỉ DN niêm yết mà CTKT cũng rất lúng túng. Mặt khác, các quy định về trích lập hiện nay vẫn chưa thống nhất nên khó cho DN khi áp dụng. Thực tế, Thông tư 13/2006/TT-BTC đến nay có nhiều điểm đã không còn phù hợp.
|