Chính sách tiền tệ thắt chặt có thực sự là câu trả lời cho lạm phát?

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Các ngân hàng trung ương toàn cầu đã nỗ lực tối đa để tăng cường thắt chặt chính sách tiền tệ nhằm làm giảm nhu cầu. Trong khi đó, những dữ liệu kinh tế suy yếu ở khu vực đồng tiền chung châu Âu và Mỹ đã làm trầm trọng thêm nỗi lo suy thoái.
Chính sách tiền tệ thắt chặt có thực sự là câu trả lời cho lạm phát?

Khi triển vọng tăng trưởng giảm sút, nhiều người dự đoán sự phá hủy nhu cầu sẽ dẫn đến lạm phát thấp hơn. Chính sách tiền tệ thắt chặt hơn và chi phí tài trợ cao hơn sẽ cắt giảm nhu cầu và bù đắp sự thiếu hụt nguồn cung do bất ổn địa chính trị và gián đoạn chuỗi cung ứng. Quan điểm này dựa trên niềm tin rằng kết quả kiểm soát lạm phát phần lớn được thúc đẩy bởi các chính sách của ngân hàng trung ương.

Tuy nhiên, điều mà Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell từng mô tả vào năm 2019 là lạm phát đã “im hơi lặng tiếng” trong những năm trước, đặc biệt là trong đợt giá dầu giảm từ năm 2014 đến năm 2016, điều này đã chứng tỏ sự thiếu nhạy cảm của lạm phát đối với các chính sách từ phía cầu. Ngay cả việc nới lỏng định lượng (QE) của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) vào năm 2015 đã không thể kích cầu theo cách làm giảm nguồn cung dư thừa.

Lập trường chính sách ôn hòa của Fed trong thập kỷ trước đại dịch đã đẩy lãi suất quỹ liên bang của Atlanta Fed xuống dưới mức 0 nhiều lần. Tuy nhiên, chỉ số lạm phát ưu tiên của Fed - chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) - ít phản ứng hơn với những thay đổi chính sách như vậy so với thời điểm kết thúc Chiến tranh Lạnh hoặc việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2001.

Tương tự như vậy, việc thắt chặt định lượng và tăng lãi suất gần đây đã không tạo ra đủ sự phá hủy nhu cầu để chống lại sự khan hiếm hàng hóa liên quan đến địa chính trị. Thay vì tuân theo chính sách của ngân hàng trung ương trong hai thập kỷ qua, lạm phát phần lớn cùng di chuyển với giá hàng hóa, hoặc cả các yếu tố cung và cầu.

Điều này làm dấy lên nghi ngờ về khuôn khổ lãi suất có thể điều chỉnh hoạt động từ đó điều chỉnh lạm phát, và cho thấy rằng, chính sách tiền tệ trong nước không thể tự mình nâng hoặc giảm lạm phát. Các yếu tố khác buộc phải phát huy tác dụng.

Ngân hàng trung ương không phải là người duy nhất kích thích kinh tế

Với hiệu ứng giảm nhỏ giọt lâu dài và có thể thay đổi của QE, các chính sách thời đại dịch đã tìm cách chống lại sự thiếu hụt nhu cầu bằng cách mở rộng bảng cân đối kế toán và thông qua kích thích tài khóa, hoặc in tiền và gửi séc trực tiếp đến các hộ gia đình. Điều này làm giảm đáng kể thời gian truyền giữa việc nới lỏng ngân hàng trung ương và lạm phát thực tế. Việc triển khai “tiền trực thăng” đã nhanh chóng phục hồi nhu cầu.

Khi sự gián đoạn của đại dịch giảm bớt, việc thắt chặt tài khóa dự kiến ​​sẽ không bao giờ thành hiện thực. Thay vào đó, sự kết hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ đã trở thành chuẩn mực và các khoản hỗ trợ bằng tiền mặt là một công cụ chính sách thường xuyên. Chẳng hạn, chính phủ Anh vào tháng 8/2022 đã công bố gói hỗ trợ trị giá 15 tỷ bảng Anh để gửi khoản thanh toán hỗ trợ 1.200 bảng Anh cho hàng triệu hộ gia đình thu nhập thấp. Khi giá năng lượng của Anh tăng vọt, cựu Thủ tướng Anh Liz Truss đã đề xuất một gói chi tiêu tài khóa khẩn cấp để giảm bớt căng thẳng tài chính của công chúng.

Ở bên kia bờ Đại Tây Dương, nhiều bang của Mỹ đã công bố các khoản chi kích thích nhằm xoa dịu nỗi đau của lạm phát cao, và Tổng thống Joe Biden đã đưa ra chương trình cứu trợ cho sinh viên vay vốn.

Bài học rõ ràng là các ngân hàng trung ương không còn là người tham gia duy nhất khi nói đến kích thích kinh tế.

Sự kiện địa chính trị gây gián đoạn nguồn cung

Khi các công ty đa quốc gia khu vực hóa các chuỗi cung ứng, nearshore (liên quan đến việc chuyển hoạt động kinh doanh sang một quốc gia lân cận), reshore (đưa hoạt động kinh doanh từ nước ngoài về nước sở tại) và ưu tiên khả năng phục hồi và dự phòng hơn là tối ưu hóa chi phí, sự khan hiếm năng lượng trong khu vực đồng euro đã tạo ra những gián đoạn mới. Sản xuất hóa chất của Đức dự kiến ​​sẽ giảm vào năm 2022, điều này có thể khiến lạm phát xuất khẩu ra nước ngoài.

Khi bất ổn địa chính trị góp phần vào các thách thức kinh tế trong nước và nhiều kích thích tài khóa hơn được triển khai, lạm phát có thể ít phản ứng hơn với các động lực tiền tệ truyền thống. Trong những trường hợp như vậy, một khuôn khổ cứng nhắc bao gồm chính sách tiền tệ thắt chặt và giá cả cao với sự phá hủy nhu cầu và sẽ khiến việc lạm phát suy giảm dần không thể hoạt động được nữa.

Tin bài liên quan