Lập trường nào cho Fed giữa tính ổn định thị trường tài chính toàn cầu

Lập trường nào cho Fed giữa tính ổn định thị trường tài chính toàn cầu

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Sự thắt chặt tiền tệ mạnh mẽ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) chưa từng thấy kể từ đầu những năm 1980.

Trong năm qua, thị trường chứng khoán Mỹ đã bị thiệt hại đáng kể, nhưng nền kinh tế và hệ thống tài chính Mỹ vẫn trên một nền tảng tương đối vững chắc. Nhưng, tình hình ở các quốc gia ngoài Mỹ trở nên bấp bênh hơn. Lãi suất cao hơn của Mỹ và đồng đô la mạnh đang làm gián đoạn dòng vốn xuyên biên giới và làm căng thẳng tài chính của các quốc gia đang nắm giữ một lượng lớn nợ bằng đồng đô la.

Tác động chính sách của Fed đối với hệ thống tài chính toàn cầu là một đặc điểm khác của đại dịch Covid-19 khiến các nhà đầu tư mất cảnh giác. Tuy nhiên, cũng giống như lạm phát sau đại dịch, nó hầu như không phải là ở mức độ chưa từng có. Kể từ khi Thế chiến I kết thúc, chính sách tiền tệ của Mỹ đã định hình dòng vốn xuyên biên giới, các chính sách của ngân hàng trung ương và tính bền vững trong việc trả nợ trên toàn thế giới. Đây là cường quốc mà Mỹ đã giả định khi trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới sau Thế chiến thứ I và là nhà phát hành tiền tệ dự trữ chính của thế giới sau Thế chiến II.

Các chính sách của Fed chắc chắn sẽ làm chao đảo thế giới một lần nữa trong những tháng tới. Trên thực tế, Hội nghị về Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc đã đưa ra báo cáo đáng ngại vào đầu tháng này và cảnh báo về khả năng phân nhánh nghiêm trọng ở một số quốc gia dễ bị tổn thương nhất.

Tuy nhiên, ngoài những điều chung chung này, khó có thể đoán trước được chính sách của Fed sẽ diễn ra như thế nào trên toàn cầu. Nhưng có một câu hỏi đáng để suy ngẫm: Liệu Fed có điều chỉnh các chính sách của mình vì lợi ích của sự ổn định tài chính toàn cầu?

Có hai kịch bản từ lịch sử có thể giúp trả lời câu hỏi này.

Benjamin Strong và thập niên 1920

Vào năm 1920, Fed đã thắt chặt chính sách tiền tệ một cách mạnh mẽ vì một lý do quen thuộc là để chế ngự lạm phát. Điều đó dẫn đến một đợt sụt giảm rõ rệt nhưng tương đối ngắn. Nền kinh tế phục hồi vào năm 1922 và chỉ bắt đầu trở nên quá nóng vào giữa thập niên 1920. Điều này đã đặt Fed vào tình thế khó khăn. Bị đổ lỗi một phần vì đã gây ra cuộc suy thoái từ năm 1920 đến năm 1921, các nhà lãnh đạo Fed lo sợ lặp lại sai lầm của họ và có thành kiến ​​chống lại việc tăng lãi suất sớm.

Trong khi đó, Fed đã phải chịu áp lực dữ dội từ các ngân hàng trung ương châu Âu để giữ lãi suất ở mức thấp. Bởi vì, nếu Fed tăng lãi suất, vàng sẽ chảy từ châu Âu sang Mỹ khi các nhà đầu tư tìm kiếm lợi tức vốn cao hơn. Điều này sẽ đe dọa tái thiết sau chiến tranh bằng cách giảm nguồn cung tiền của châu Âu và buộc các ngân hàng trung ương châu Âu phải tăng lãi suất để ngăn chặn dòng chảy của vàng.

Cam kết của Fed đối với việc tái thiết châu Âu đã được Anh thử nghiệm lần đầu tiên vào năm 1925. Sau Thế chiến I, đồng bảng Anh phần lớn đã mất trạng thái là đồng tiền dự trữ trên toàn cầu và rơi vào đồng đô la Mỹ. Nhưng giới lãnh đạo chính trị của Anh muốn khôi phục nó.

Giữa những lời kêu gọi từ các nhà lãnh đạo của Ngân hàng Trung ương Anh và các chính trị gia để thiết lập lại chế độ bản vị vàng, ông Winston Churchill với tư cách là Bộ trưởng Tài chính Anh lúc đó đã phải chịu áp lực. Ông tuyên bố, đồng bảng Anh sẽ quay trở lại tỷ giá hối đoái cố định trước chiến tranh là 4,86 ​​USD. Điều này về cơ bản đã định giá đồng bảng Anh quá cao và ngay lập tức khiến hàng hóa xuất khẩu của Anh trở nên thiếu cạnh tranh. Điều đó đã làm gia tăng xu hướng vàng chuyển từ Anh đến Mỹ và tạo ra nhiều vấn đề cho cả hai nước: Anh bị suy thoái kinh tế trong khi nguồn cung tiền của Mỹ tăng nhanh không mong muốn.

Vào mùa Xuân năm 1927, lo sợ Fed sẽ lại tăng lãi suất trong bối cảnh lạm phát và đầu cơ gia tăng, các ngân hàng trung ương từ Anh, Đức và Pháp đã đến Mỹ để vận động hành lang ủng hộ chính sách tiền tệ nới lỏng. Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York, Benjamin Strong đã giúp thuyết phục các nhà lãnh đạo Fed tuân theo đề nghị của châu Âu.

Nhưng họ đã đi một bước xa hơn: Thay vì giữ lãi suất ổn định, họ lại cắt giảm lãi suất. Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York giảm lãi suất tái chiết khấu từ 4% xuống 3,5%. Theo nhà kinh tế học Adolph C. Miller, ông từng là thành viên của Hội đồng Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang từ năm 1914 đến năm 1936 đã mô tả quyết định này là “Hoạt động lớn nhất và táo bạo nhất từng được thực hiện bởi Hệ thống Dự trữ Liên bang, và là một trong những sai sót tốn kém nhất mà Fed hoặc bất kỳ hệ thống ngân hàng nào khác phạm phải trong 75 năm qua”.

Đây không phải là một sự phóng đại. Chính sách tiền tệ quá dễ dàng của Fed đã thúc đẩy tình trạng đầu cơ tràn lan vào cuối những năm 1920. Điều này kết thúc bằng vụ sụp đổ thảm khốc vào tháng 10/1929 và gây ra một cuộc Đại suy thoái.

Paul Volcker và siêu lạm phát

Chủ tịch Fed Paul Volcker đã công bố chương trình thắt chặt tiền tệ nổi tiếng vào ngày 6/10/1979. Mặc dù ông hiểu rằng điều đó sẽ gây ra những hậu quả to lớn bên ngoài nước Mỹ, nhưng ông không để điều đó ảnh hưởng đến các quyết định chính sách của mình. Ưu tiên của ông là kiểm soát lạm phát của Mỹ trước tiên và sau đó giải quyết các hậu quả, cả đối ngoại và trong nước khi chúng xuất hiện.

Sự thắt chặt tiền tệ của Chủ tịch Fed Paul Volcker tồn tại trong gần hai năm. Khi lạm phát được điều chỉnh và nền kinh tế Mỹ không còn duy trì được chính sách thắt lưng buộc bụng, Fed bắt đầu nới lỏng lãi suất vào tháng 7/1981. Nước Mỹ dần dần xuất hiện sau cuộc suy thoái trầm trọng 1981-1982, và sự ổn định giá cả sau đó đã giúp thúc đẩy gần hai thập kỷ thịnh vượng.

Các quốc gia khác vào thời điểm đó cũng không tăng lãi suất. Tình hình ở Mỹ Latinh đặc biệt đau đớn và những năm 1980 thường được coi là thập kỷ mất mát của Mỹ Latinh. Việc Mỹ tăng lãi suất mạnh và đột ngột khiến đồng đô la tăng giá đáng kể so với nhiều đồng tiền. Nhiều nước Mỹ Latinh đã phải gánh những khoản nợ bằng đô la Mỹ, thường là với lãi suất thả nổi trong suốt những năm 1970. Họ phải đối mặt với các khoản thanh toán lãi suất cao hơn bằng đồng đô la cũng như đồng tiền của họ giảm giá trị. Mexico là quốc gia bị ảnh hưởng đặc biệt nặng nề và đã vỡ nợ nước ngoài vào tháng 8/1982.

Mặc dù Fed đã cung cấp viện trợ đáng kể cho Mexico và một số các quốc gia khác, nhưng nỗi đau ở các quốc gia không ngăn cản Chủ tịch Fed Paul Volcker trật bánh khỏi con đường của mình. Mối quan tâm trong nước đối với ông vẫn được ưu tiên rõ ràng. Yếu tố này trong triết lý của Chủ tịch Fed Paul Volcker là điều phân biệt rõ nhất so với nhiệm kỳ của Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York, Benjamin Strong.

“Tôi nghĩ những trở ngại chính đối với sự điều phối quốc tế về chính sách tiền tệ là về mặt lý thuyết thì nghe có vẻ ổn, nhưng khi mục tiêu tỷ giá hối đoái có vẻ mâu thuẫn với tính cấp bách trong nước, thì tính cấp bách trong nước sẽ thắng. Về mặt chính trị, rất khó để có thể điều chỉnh chính sách trong nước để ổn định tỷ giá hối đoái quốc tế, mặc dù về lâu dài, đó có thể là điều đáng mong đợi, Chủ tịch Fed Paul Volcker cho biết trong nhiệm kỳ của mình.

Điều này có nghĩa gì với bên ngoài Mỹ?

Mức độ mà Fed sẽ điều chỉnh và hiệu chỉnh lại các chính sách của mình dựa trên tác động toàn cầu của chúng là không rõ ràng. Nhưng đa phần các nhà kinh tế kỳ vọng Fed sẽ đi theo mô hình của Paul Volcker hơn là Benjamin Strong. Bầu không khí chính trị hiện tại ở Mỹ đang tập trung vào các mối quan tâm trong nước và với tất cả những điều khác đều bình đẳng, Fed có thể sẽ phản ánh quan điểm của người dân Mỹ.

Vì vậy, khi nói đến chính sách tiền tệ của Mỹ, các chính phủ nước ngoài sẽ chủ động hơn khi chuẩn bị cho những động thái Paul Volcker và kỳ vọng một ít động thái của Benjamin Strong.

Tin bài liên quan