Chia sẻ trong Hội thảo “Emerging Vietnam - Beyond the Upgrade” do CTCK SSI tổ chức, ông Lê Anh Tuấn, Tổng giám đốc Dragon Capital khẳng định, khu vực FDI chỉ sử dụng khoảng 4,5 triệu người, trong khi lực lượng lao động Việt Nam có 60 triệu người. FDI quan trọng nhưng chỉ là yếu tố ổn định (stabilizer), không thể là động lực chính. Động lực chủ yếu là nội địa; 92% việc làm ở Việt Nam do các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) tạo ra.
![]() |
| Ông Lê Anh Tuấn, Tổng giám đốc Dragon Capital |
Ông Tuấn cho biết, 3 trụ cột tầm nhìn đến năm 2030. Thứ nhất là cơ sở hạ tầng. Hiện chi phí logistics tại Việt Nam cực kỳ cao, khoảng 19 - 20% chi phí, chỉ tốt hơn một chút so với Indonesia, trong khi Mỹ và Trung Quốc chỉ khoảng 12%. Tuyến đường cao tốc từ Sài Gòn đến Đà Lạt (khoảng 300 km) mất 8 giờ là “điều khủng khiếp”. Tuy nhiên, nếu Việt Nam có thể hoàn thành kế hoạch 5.000 km đường cao tốc vào năm 2030 (hiện tại chỉ có 1.600 - 1.700 km), thì đây sẽ là con số vượt xa bất kỳ quốc gia nào trong khu vực.
Thứ hai là phát triển khu vực tư nhân. Đây là cải cách quan trọng nhất (most reformed thing) mà nhà đầu tư đã chứng kiến tại Việt Nam.
Thứ ba là vị thế thị trường vốn. Tại Việt Nam, ngân hàng đóng vai trò trung tâm trong việc huy động, phân bổ và kiểm soát vốn, thay vì thị trường vốn (bank-centric model), nhưng 5 năm tới, thị trường vốn sẽ phát huy tốt hơn vai trò của mình.
Trong đó, tác động chuyển đổi của cơ sở hạ tầng là rất lớn. Các nghiên cứu cho thấy, đường sắt cao tốc ở Trung Quốc đóng góp gần 1% vào GDP hàng năm, tăng trưởng ngành du lịch 22%, và nâng giá bất động sản 3 - 13%. Ở Việt Nam, nếu dự án này được thực hiện, nó sẽ tạo ra mức tăng 1% GDP ngay lập tức, khoảng 200.000 việc làm, và thúc đẩy ngành xây dựng 33 tỷ USD.
Ông Tuấn tin rằng, Việt Nam có thể đạt được tốc độ tăng trưởng hai chữ số mà không gây ra rủi ro lạm phát cao như năm 2011. Rủi ro lạm phát thấp hơn vì nhiều mặt hàng như giáo dục, xăng dầu, đã được tự do hóa (liberalized), không còn bị kiểm soát giá. Hơn nữa, tăng trưởng tín dụng hiện chỉ 18 - 19%, thấp hơn nhiều so với 40% trước đây, và tài khoản vãng lai (current account) đang dương.
Trên thị trường chứng khoán, dự kiến tăng trưởng lợi nhuận của các doanh nghiệp năm 2025 là 22% (quý IV/2025 có thể đạt 25-30%) và năm 2026 dự kiến tăng 17%.
Mặc dù triển vọng rất tích cực, nhưng dòng vốn ngoại hiện tại lại rút ròng. Từ mức ròng 1 tỷ USD/năm, hiện tại thị trường chứng kiến dòng vốn chảy ra trong 10 tháng đầu năm là 100.000 tỷ đồng (hơn 3,8 tỷ USD). Tỷ lệ sở hữu nước ngoài đang ở mức thấp kỷ lục (khoảng 15%), trong khi ở Thái Lan, Malaysia, và Hàn Quốc là 25 - 40%.
![]() |
Nói về thị trường trái phiếu, trái phiếu chính phủ có lợi suất thấp và gần như không có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ (zero dollar holding). Trái phiếu doanh nghiệp cũng đang không phát triển vì các doanh nghiệp tốt có thể vay từ ngân hàng với chi phí rẻ hơn (7 - 9% so với 12%). Các ngân hàng Việt Nam vẫn rất ổn định qua các chu kỳ vì họ dựa vào tài sản thế chấp là đất đai/bất động sản (85% tài sản thế chấp) chứ không phải hàng tồn kho (inventory).
Xét về chỉ số, VN-Index đã tăng 30%, nguyên do: tăng trưởng lợi nhuận tốt hơn dự kiến; tâm lý nhà đầu tư trong nước được cải thiện; định giá hấp dẫn (Valuation): tỷ lệ P/E chỉ khoảng 13,5 lần (và khoảng 11 lần nếu loại bỏ một số cổ phiếu), dù thị trường đã tăng 30%, trong các thị trường mới nổi thành công khác, P/E có thể đạt 25 lần.
Ông Tuấn cho rằng, hai lĩnh vực tốt nhất để đầu tư dài hạn (5-10 năm) là Ngân hàng - đây là đại diện tốt cho nền kinh tế bank-centric và thị trường Bán lẻ (Retail market) - đang chuyển đổi khá tốt.

