Nền kinh tế toàn cầu đã qua thời kỳ Điều độ Vĩ đại

Nền kinh tế toàn cầu đã qua thời kỳ Điều độ Vĩ đại

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Nền kinh tế thế giới đang có sự chuyển dịch chế độ triệt để. Thời kỳ Great Moderation kéo dài hàng thập kỷ đã kết thúc. Toàn cầu hóa ngày càng có xu hướng đảo ngược, nhiều thách thức đang khiến sản lượng thấp hơn và giá cả cao hơn.

Xuất hiện sau thời kỳ đình lạm (Stagflation - lạm phát cao và suy thoái trầm trọng) của những năm 1970 và đầu những năm 1980, thời kỳ Điều độ Vĩ đại (Great Moderation) được đặc trưng bởi lạm phát thấp ở các nền kinh tế tiên tiến, tăng trưởng kinh tế tương đối ổn định và mạnh mẽ, không có suy thoái ngắn và nông; lợi tức trái phiếu thấp và do lạm phát giảm nên giá trị của các tài sản rủi ro như cổ phiếu Mỹ nói riêng và cổ phiếu toàn cầu nói chung đều tăng mạnh.

Thời kỳ lạm phát thấp kéo dài này thường được lý giải là do các ngân hàng trung ương chuyển sang các chính sách lạm phát mục tiêu đáng tin cậy sau chính sách tiền tệ nới lỏng của những năm 1970 và các chính phủ tuân thủ các chính sách tài khóa tương đối thận trọng. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn các chính sách trọng cầu là nhiều cú sốc về nguồn cung mang tính tích cực đã làm tăng tiềm năng tăng trưởng và giảm chi phí sản xuất, do đó giữ lạm phát trong tầm kiểm soát.

Giảm chi phí sản xuất

Trong thời kỳ siêu toàn cầu hóa (hyper-globalization) sau Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc, Nga và các nền kinh tế thị trường mới nổi khác đã hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, cung cấp cho nền kinh tế thế giới hàng hóa, dịch vụ, năng lượng và hàng hóa chi phí thấp. Hoạt động di cư từ Nam lên Bắc trên quy mô lớn đã hạn chế chi phí tiền lương ở các nền kinh tế tiên tiến, đổi mới công nghệ làm giảm chi phí sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ, và sự ổn định địa chính trị tương đối cho phép phân bổ sản xuất hiệu quả đến các địa điểm có chi phí thấp nhất mà không lo lắng về vấn đề an ninh đầu tư.

Tuy nhiên, thời kỳ Great Moderation bắt đầu rạn nứt trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và sau đó là trong cuộc suy thoái Covid-19 năm 2020. Trong cả hai trường hợp, lạm phát ban đầu vẫn ở mức thấp do các cú sốc về nhu cầu, và các chính sách tiền tệ, tài khóa và tín dụng nới lỏng đã ngăn chặn giảm phát. Nhưng hiện nay, lạm phát đã quay trở lại và tăng mạnh, đặc biệt là trong năm qua, do sự kết hợp của cả nhu cầu và các yếu tố nguồn cung.

Về phía cung, phản ứng dữ dội chống lại siêu toàn cầu hóa đang tạo đà cho các chính trị gia theo chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bản địa bài ngoại và chủ nghĩa bảo hộ. Sự tức giận của công chúng đối với sự bất bình đẳng về thu nhập và giàu nghèo cũng đang hình thành, dẫn đến nhiều chính sách hỗ trợ người lao động và những người “bị bỏ lại phía sau”. Tuy nhiên, những chính sách này hiện đang góp phần vào một vòng xoáy nguy hiểm của lạm phát giá tiền lương.

Phản kháng chính trị

Trong khi đó, chủ nghĩa bảo hộ mới (từ cả cánh tả và cánh hữu) đã hạn chế thương mại và sự di chuyển của dòng vốn. Căng thẳng chính trị (cả trong và giữa các quốc gia) đang thúc đẩy một quá trình tìm kiếm lại và friend-shoring (giải pháp chuyển các hoạt động trong chuỗi cung ứng hàng hóa về các nước thân thiện). Sự phản kháng chính trị đối với vấn đề nhập cư đã hạn chế sự di chuyển của người dân trên toàn cầu, gây thêm áp lực tăng lương. Các cân nhắc chiến lược và an ninh quốc gia đã hạn chế hơn nữa các luồng công nghệ, dữ liệu và thông tin. Và các tiêu chuẩn mới về lao động và môi trường đang cản trở cả thương mại và xây dựng mới.

Quá trình Balkan hóa (balkanization - mô tả sự phân chia hoặc phân mảnh của một bang hoặc khu vực thành những nơi nhỏ hơn) nền kinh tế toàn cầu này đang gây ra tình trạng đình lạm sâu sắc và trùng hợp với sự già hóa của nhân khẩu học, không chỉ ở các nước phát triển, mà còn ở các nền kinh tế lớn mới nổi như Trung Quốc. Vì những người trẻ tuổi có xu hướng sản xuất và tiết kiệm, trong khi những người lớn tuổi chi tiêu tiết kiệm của họ, xu hướng này cũng là đình lạm.

Điều này cũng đúng với tình trạng hỗn loạn địa chính trị ngày nay.

Xung đột giữa Nga với Ukraine và phản ứng của phương Tây đối với xung đột này đã làm gián đoạn hoạt động thương mại năng lượng, thực phẩm, phân bón, kim loại công nghiệp và các hàng hóa khác. Sự tách biệt của phương Tây khỏi Trung Quốc đang tăng tốc trên tất cả các khía cạnh thương mại (hàng hóa, dịch vụ, vốn, lao động, công nghệ, dữ liệu và thông tin).

Biến đổi khí hậu

Đồng đô la đã được vũ khí hóa hoàn toàn cho các mục đích chiến lược và an ninh quốc gia. Trong khi đó, vai trò là đồng tiền dự trữ toàn cầu chính của đồng đô la có thể bắt đầu giảm và đồng đô la yếu hơn tất nhiên sẽ làm tăng thêm áp lực lạm phát. Một hệ thống giao dịch thế giới không ma sát đòi hỏi một hệ thống tài chính không ma sát. Nhưng các biện pháp trừng phạt sơ cấp và thứ cấp đang làm cản trở cỗ máy được bôi trơn này, làm tăng ồ ạt chi phí giao dịch thương mại.

Trên hết, biến đổi khí hậu cũng gây ra tình trạng đình lạm. Hạn hán, sóng nhiệt, bão, và những điều tồi tệ khác ngày càng làm gián đoạn hoạt động kinh tế và ảnh hưởng tới các vụ mùa thu hoạch (do đó làm tăng giá lương thực). Đồng thời, nhu cầu khử cacbon đã dẫn đến việc không đầu tư vào công suất nhiên liệu hóa thạch trước khi đầu tư vào năng lượng tái tạo đạt đến mức có thể tạo ra sự khác biệt. Do đó, mức tăng đột biến lớn về giá năng lượng ngày nay là không thể tránh khỏi.

Đại dịch cũng sẽ là một mối đe dọa dai dẳng, tạo thêm động lực cho các chính sách bảo hộ khi các nước đổ xô tích trữ các nguồn cung cấp thực phẩm, thuốc men và các mặt hàng thiết yếu khác. Sau hơn 2 năm đối mặt với Covid-19, giờ đây thế giới lại đối mặt với bệnh đậu mùa khỉ. Sự xâm phạm của con người đối với các hệ sinh thái mong manh và sự tan chảy của lớp băng vĩnh cửu ở Siberia, chúng ta có thể sớm phải đối mặt với các loại virus và vi khuẩn nguy hiểm đã bị nhốt lại trong hàng thiên niên kỷ.

Cuối cùng, chiến tranh mạng vẫn là một mối đe dọa không được đánh giá cao đối với hoạt động kinh tế và thậm chí là an toàn cộng đồng. Các công ty và chính phủ hoặc sẽ phải đối mặt với nhiều gián đoạn lạm phát hơn đối với sản xuất, hoặc họ sẽ phải chi rất nhiều tiền cho an ninh mạng. Dù bằng cách nào, chi phí cũng sẽ tăng lên.

Về phía cầu, các chính sách tiền tệ, tài khóa và tín dụng nới lỏng và bất thường không phải là một lỗi mà là một đặc điểm của chế độ mới. Giữa tỷ lệ nợ công và tư nhân (tính theo tỷ trọng GDP) ngày nay và các khoản nợ khổng lồ chưa hoàn trả của các hệ thống y tế và an sinh xã hội, cả khu vực tư nhân và nhà nước đều phải đối mặt với rủi ro tài chính ngày càng tăng. Do đó, các ngân hàng trung ương đang mắc trong một “bẫy nợ”: bất kỳ nỗ lực nào nhằm bình thường hóa chính sách tiền tệ sẽ khiến gánh nặng trả nợ tăng đột biến, dẫn đến các vụ vỡ nợ lớn, khủng hoảng tài chính kéo dài và nền kinh tế thực sụp đổ.

Với việc các chính phủ không thể giảm các khoản nợ cao và thâm hụt bằng cách chi tiêu ít hơn hoặc tăng thu, những quốc gia có thể vay bằng đồng nội tệ của họ sẽ ngày càng sử dụng đến “thuế lạm phát”: dựa vào tăng trưởng giá cả bất ngờ để xóa sạch các khoản nợ danh nghĩa dài hạn ở mức cố định.

Do đó, như trong những năm 1970, các cú sốc cung tiêu cực liên tục và lặp đi lặp lại sẽ kết hợp với các chính sách tiền tệ, tài khóa và tín dụng nới lỏng để tạo ra một nền kinh tế đình lạm. Hơn nữa, tỷ lệ nợ cao sẽ tạo điều kiện cho khủng hoảng nợ trong môi trường đình lạm. Trong thời kỳ Great Stagflation (Đại đình lạm), cả hai thành phần của bất kỳ danh mục tài sản truyền thống nào như trái phiếu dài hạn và cổ phiếu của Mỹ cũng như toàn cầu đều sẽ bị ảnh hưởng và có khả năng chịu lỗ lớn.

Tin bài liên quan