Từng bước hướng tới cuộc cách mạng chuyển đổi số trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Sau sự xuất hiện của đại dịch Covid-19, “chuyển đổi số” đã trở thành một trong những cụm từ khóa phổ biến nhất. Với vai trò là cơ quan trực tiếp chịu trách nhiệm bảo vệ người gửi tiền, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) cũng có sự thay đổi trong hoạt động nhằm thúc đẩy mạnh hơn sự lan tỏa chính sách bảo hiểm tiền gửi (BHTG) cũng như niềm tin của công chúng vào hoạt động ngân hàng.
Từng bước hướng tới cuộc cách mạng chuyển đổi số trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi

Chuyển đổi số - xu hướng tất yếu

Ngày 03/6/2020, “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là kim chỉ nam cho các hoạt động chuyển đổi số trong các cơ quan tại Trung ương và địa phương.

Theo đó, chuyển đổi số với 03 trụ cột chính là Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số có tác động đến mọi cơ quan, đơn vị và địa phương. Phải lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể và mục tiêu, động lực của chuyển đổi số. Người dân, doanh nghiệp cũng phải tham gia vào quá trình chuyển đổi số.

Đáng chú ý, Chỉ thị số 02/CT-NHNN nhấn mạnh việc tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền phổ biến kiến thức, giáo dục tài chính, hướng dẫn người dân, doanh nghiệp hiểu rõ và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số một cách an toàn, đúng quy định pháp luật. Thúc đẩy các hoạt động hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm và nghiên cứu, ứng dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng để phát triển, cung ứng đa dạng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tiện ích, an toàn, tăng cường trải nghiệm khách hàng và đáp ứng tốt nhu cầu và kỳ vọng ngày càng cao của người dân, doanh nghiệp.

Trong Kế hoạch chuyển đổi số ngành ngân hàng đến năm 2025 định hướng đến năm 2030 đã đề ra, các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ có tối thiểu 50% nghiệp vụ ngân hàng cho phép khách hàng có thể thực hiện hoàn toàn trên môi trường số, tối thiểu 50% người trưởng thành sử dụng dịch vụ thanh toán điện tử và tối thiểu 70% số lượng giao dịch của khách hàng được thực hiện thông qua các kênh số. Mục tiêu cơ bản đến năm 2030, các tổ chức tín dụng sẽ có ít nhất 70% nghiệp vụ ngân hàng cho phép khách hàng có thể thực hiện hoàn toàn trên môi trường số và tối thiểu 80% số lượng giao dịch của khách hàng được thực hiện thông qua các kênh số.

Cũng trong Kế hoạch, sự kiện “Ngày chuyển đổi số” sẽ được Ngân hàng Nhà nước định kỳ tổ chức hàng năm. Các chương trình giáo dục tài chính cho người dân, doanh nghiệp sẽ được triển khai để tăng cường kiến thức, kỹ năng quản lý tài chính, nâng cao hiểu biết trong sử dụng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số một cách an toàn, hiệu quả. Không chỉ vậy, Khuôn khổ pháp lý sẽ tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng. Hạ tầng số, Chính phủ điện tử, mô hình Ngân hàng số dần được nâng cấp, xây dựng và hoàn thiện...

Như vậy, có thể nói, chuyển đổi số đã là trở thành một xu hướng tất yếu, và chủ trương chuyển đổi số được Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo thông suốt, thực hiện một cách có hệ thống. BHTGVN cũng đã và đang triển khai từng bước chuyển đổi số một cách đồng bộ, hiệu quả trên tất cả các mặt hoạt động.

BHTGVN từng bước hướng tới cách mạng chuyển đổi số

Với sứ mệnh của một tổ chức tài chính Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ người gửi tiền, BHTGVN lấy người gửi tiền làm trung tâm trong tiến trình chuyển đổi số chung của ngành ngân hàng, làm cơ sở bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng.

Tựu chung, BHTGVN đã từng bước thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động nghiệp vụ:

Một là, bám sát sự chỉ đạo và định hướng của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương cũng như kế hoạch của toàn ngành ngân hàng, BHTGVN đã ban hành các văn bản triển khai chuyển đổi số tại BHTGVN đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; thành lập Ban chỉ đạo chuyển đổi số BHTGVN; thành lập Tổ giúp việc Ban chỉ đạo chuyển đổi số tại BHTGVN...

Theo đó, BHTGVN tiếp tục thực hiện Kế hoạch chuyển đổi số phù hợp với tiềm lực về nguồn tài chính, nhân sự, hệ thống cơ sở hạ tầng... Đồng thời, xác định rõ chiến lược xây dựng tổ chức BHTG số hóa, phù hợp với thông lệ quốc tế. Đặc biệt chú trọng cấu phần đảm bảo an ninh, an toàn, nhất là an ninh mạng. Xây dựng, phát triển và nhất quán thực hiện văn hóa số, trong đó có văn hóa ra quyết định trên cơ sở thông tin, dữ liệu.

Hai là, BHTGVN thực hiện chuyển đổi số gắn liền với “lấy người gửi tiền làm trung tâm”. Theo đó, hướng tới giáo dục, tuyên truyền để người gửi tiền nhận thức được tính tiện ích của các dịch vụ số hóa, đẩy mạnh các giao dịch trực tuyến, khuyến khích sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Mặt khác, BHTGVN cũng cần thiết kế phần mềm ứng dụng, số hóa quy trình nghiệp vụ BHTG để đáp ứng sự tiện dụng, nhanh chóng, nhu cầu đa dạng của người gửi tiền cũng như các tổ chức tham gia BHTG.

Ba là, tăng cường thiết lập quan hệ trao đổi thông tin, quy trình nghiệp vụ BHTG trên nền tảng số, chú trọng nâng cấp cơ sở dữ liệu, nâng cao năng lực thu thập, sàng lọc, phân tích và quản lý Big Data, ứng dụng AI để nắm bắt, đảm bảo sự thông suốt, liền mạch, nhanh chóng phát hiện những rủi ro đối với an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, đưa ra cảnh báo chính xác, kịp thời. Từ đó, có những tham mưu, đề xuất hợp lý đối với các cơ quan quản lý nhà nước liên quan.

Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường công tác đào tạo, đào tạo chuyên sâu nhằm trang bị những kỹ năng, kiến thức cần thiết thích ứng với bối cảnh CMCN 4.0. Chú trọng công tác tuyển dụng, giao việc, đánh giá, chế độ đãi ngộ, hướng tới đội ngũ “nhân sự số” như chuyên gia công nghệ thông tin và chuyển đổi số, phát triển hệ sinh thái, phân tích dữ liệu…

Có thể nói, ứng dụng tốt chuyển đổi số trong hoạt động BHTG sẽ là động lực để tăng cường nhận thức về chính sách, qua đó nâng cao niềm tin công chúng vào hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, việc chuyển đổi số cần được BHTGVN thực hiện theo từng bước và phải liên tục được cập nhật để theo kịp các tiến bộ về khoa học công nghệ hiện đại, đồng thời kiểm nghiệm, đánh giá hiệu quả đối với những hoạt động đã triển khai để kịp thời cải tiến, khắc phục.

Tin bài liên quan