Sự chậm trễ trong việc giải quyết thủ tục có thể gây thiệt hại rất lớn cho doanh nghiệp.

Sự chậm trễ trong việc giải quyết thủ tục có thể gây thiệt hại rất lớn cho doanh nghiệp.

Vẫn khó thực hiện bồi thường

(ĐTCK-online) Trong văn bản góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) mới đây, băn khoăn về thiếu nguyên tắc, cách thức thực hiện quy định về bồi thường trong trường hợp công chức nhà nước gây thiệt hại tiếp tục được đưa ra.

Ông Trần Hữu Huỳnh, Trưởng ban Pháp chế (VCCI) bình luận, trong khi Dự thảo quy định khá cụ thể thời gian xác minh thiệt hại và người trực tiếp tổ chức việc xác minh thiệt hại (người đại diện thực hiện việc giải quyết bồi thường - khoản a điều 7 Dự thảo Nghị định), thì lại hầu như bỏ qua quy định về nguyên tắc, cách thức khi tiến hành xác minh thiệt hại.

Thực tiễn, việc xác định thiệt hại làm căn cứ xác định mức bồi thường không ít trường hợp gặp rất nhiều khó khăn. Đây chính là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng chậm bồi thường kéo dài. “Để khắc phục những tồn tại, bất cập đó trong việc bồi thường thiệt hại (cả lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án), cần quy định cụ thể hơn về việc xác minh thiệt hại để có thể áp dụng được ngay hoặc làm căn cứ để Bộ Tư pháp ban hành văn bản hướng dẫn trình tự, thủ tục tiến hành xác minh thiệt hại trong lĩnh vực quản lý hành chính và thi hành án dân sự”, ông Huỳnh kiến nghị.

Cũng phải nói rằng, việc xác định thiệt hại trong quản lý hành chính không hề đơn giản. Sự chậm trễ mà các công chức thực hiện không đúng quy định có thể gây ra tổn thất rất lớn cho doanh nghiệp. Tất nhiên, các hệ luỵ liên đới sẽ không được tính tới, song nếu như thiếu các nguyên tắc cơ bản để xác minh thiệt hại, phần công việc quan trọng tiếp sau là thực hiện bồi thường sẽ không có cơ sở để tiến hành.

Liên quan đến phần thi hành trách nhiệm bồi thường của người thi hành công vụ, yếu tố khá quan trọng là điều kiện kinh tế của người thi hành công vụ vẫn chưa được hướng dẫn cụ thể.

Theo khoản 1 điều 57 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định căn cứ xác định mức hoàn trả bao gồm: mức độ lỗi của người thi hành công vụ; mức độ thiệt hại đã gây ra; điều kiện kinh tế của người thi hành công vụ.

Tuy nhiên, tại điều 16 dự thảo nghị định này, nguyên tắc xác định mức hoàn trả mới chỉ được xem xét theo hai góc độ. Một là, trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại. Hai là, người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây thiệt hại.

Các quy định chi tiết về mức độ thiệt hại và điều kiện kinh tế của người thi hành công vụ dùng làm căn cứ xác định mức hoàn trả sẽ tạo thuận lợi rất lớn trong quá trình áp dụng, thi hành các quy định về bồi thường”, ông Huỳnh phân tích.

Bên cạnh đó, việc xử lý người thi hành công vụ cố ý không thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cũng có vẻ khó khăn. Hiện tại, Dự thảo Nghị định đã bỏ qua những điều khoản đề cập đến thời gian thông báo quyết định hoàn trả đến người hoàn trả; quy định cụ thể thời hạn thông báo (lần thứ hai, lần thứ ba) về nghĩa vụ hoàn trả tới người thi hành công vụ để làm căn cứ xử lý. Vì nếu thiếu các giới hạn thời gian này, hình thức xử lý kỷ luật công chức cố tình không thực hiện nghĩa vụ sẽ rất khó kiểm soát.

Hơn thế, trường hợp người thi hành công vụ cố ý không thực hiện nghĩa vụ và đã không còn làm việc trong cơ quan nhà nước cũng đang khá lấn cấn. Khoản 3 điều 20 Dự thảo quy định: “Trường hợp người thi hành công vụ không còn làm việc trong các cơ quan nhà nước thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường thực hiện các biện pháp thu hồi khoản tiền hoàn trả theo quy định của pháp luật”.

Ông Huỳnh cho rằng, đây không phải là biện pháp xử lý mà chỉ là yêu cầu bên có liên quan thực hiện nghĩa vụ tài sản. Vì vậy, ông Huỳnh đề xuất, nên có một điều riêng quy định về việc thu hồi tài sản trong trường hợp người thi hành công vụ không còn làm việc trong các cơ quan, tổ chức nhà nước, đảm bảo cơ chế để thực hiện thu hồi các khoản tiền mà người thi hành công vụ phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Trong dự thảo nghị định này, việc trả lại tài sản được quy định khá chi tiết. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền của người bị thiệt hại và nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong thực thi công vụ, cần có quy định bồi thường thiệt hại (quy giá trị tài sản thành tiền) nếu tài sản bị thất thoát, hư hỏng trong quá trình các cơ quan nhà nước thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu…