Xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42: Kết quả có thể tốt hơn nếu…

Xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42: Kết quả có thể tốt hơn nếu…

(ĐTCK) Nghị quyết 42 ra đời đã tạo cơ chế xử lý hiệu quả nhằm giải quyết nhanh, dứt điểm nợ xấu tại các TCTD. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng còn phát sinh những vướng mắc, làm hạn chế công tác xử lý nợ xấu.

Cho chủ nợ thu, nhưng không buộc người vay trả

Chia sẻ với Báo Ðầu tư Chứng khoán, giám đốc công ty quản lý tài sản (AMC) một ngân hàng thương mại cổ phần có trụ sở tại TP.HCM cho biết, Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/06/2017 của Quốc hội (Nghị quyết 42) cho phép tổ chức tín dụng (TCTD) được quyền thu giữ tài sản bảo đảm (TSBÐ) để xử lý nợ xấu.

Tuy nhiên, trên thực tế, phương thức thu giữ TSBÐ để xử lý nợ xấu chỉ thành công khi khách hàng hợp tác, hoặc trong một số trường hợp nhất định như khách hàng đã bỏ trốn khỏi địa phương mà TSBÐ không có tranh chấp, TSBÐ là đất trống…, còn khi khách hàng không hợp tác bàn giao TSBÐ, chống đối khi tiến hành thu giữ, TCTD vẫn phải khởi kiện khách hàng ra tòa án để được quyền xử lý TSBÐ thông qua thi hành án, do Nghị quyết 42 không quy định cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế, yêu cầu/buộc người đang chiếm hữu, sử dụng tài sản phải bàn giao tài sản như cơ quan thi hành án.

Thực tế, theo Nghị quyết 42, các TCTD thực hiện quyền thu giữ TSBÐ đi kèm với điều kiện trong hồ sơ thế chấp phải có thỏa thuận về điều khoản thu giữ TSBÐ. Tuy nhiên, các hợp đồng bảo đảm được ký kết trước thời điểm Nghị quyết 42 có hiệu lực đều không quy định trực tiếp nội dung này (vì tại thời điểm hợp đồng được ký kết thì Nghị định 163/2006/NÐ-CP không quy định nội dung này). Do vậy, để đủ điều kiện áp dụng quyền thu giữ TSBÐ theo quy định trên, các TCTD phải đàm phán với bên vay điều chỉnh lại hợp đồng, nhưng khách hàng thường không hợp tác (không ký). Vì vậy, các TCTD rất khó để thực hiện việc thu giữ TSBÐ theo Ðiều 7 - Nghị quyết 42.

“Ngoài ra, khi thu giữ đối với tài sản là nhà đất, trong nhà đất đó có các tài sản khác của người có nhà đất thế chấp hoặc của bên thứ ba (các đồ gia dụng, điện tử, quần áo, giường tủ…) mà họ không tự nguyện dời đi thì cơ chế, phương thức để xử lý đối với các tài sản này thế nào (gửi giữ ở đâu, nếu người có tài sản không hợp tác để nhận và di dời tài sản thì sẽ xử lý phát mại và xử lý tiền thu được như thế nào…)?

Hoặc khi thu giữ đối với tài sản là nhà đất, trong nhà đất đó có những người không phải là người thế chấp (như bố mẹ, các con cái của người thế chấp) đang sinh sống thì cơ chế, phương thức để xử lý đối với những người này ra sao?”, vị giám đốc AMC băn khoăn.

Một điểm đáng chú ý khác là thứ tự ưu tiên thu nợ, thanh toán nghĩa vụ nộp thuế sau khi xử lý TSBÐ. Theo Nghị quyết 42, số tiền thu được từ xử lý TSBÐ của khoản nợ xấu được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ của các TCTD trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ khác không có bảo đảm.

Tuy nhiên, từ thực tế triển khai, các ngân hàng cho biết, ngành thuế nhiều địa phương vẫn yêu cầu bên nhận bảo đảm/bên nhận chuyển nhượng phải đóng thay tiền thuế thu nhập cho bên bảo đảm mới thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận, sang tên trước bạ (mặc dù TSBÐ sau khi xử lý không đủ trả nợ cho TCTD).

“Ðiều này không phù hợp với quy định tại Nghị quyết 42, hạn chế các TCTD trong công tác xử lý nợ xấu”, phó tổng giám đốc phụ trách khối pháp chế một ngân hàng thương mại cổ phần nói.

Bên cạnh đó, việc áp dụng thủ tục xét xử rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến TSBÐ tại tòa án cũng còn nhiều vướng mắc. Hiện tòa án nhân dân tối cao đã có nghị quyết hướng dẫn thực hiện đối với trường hợp này. Tuy vậy, việc hoàn thiện các thủ tục theo yêu cầu của tòa án rất khó khăn, chẳng hạn như việc thực hiện quy định về xác nhận công nợ, tài liệu về nơi cư trú của người bị kiện (người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan) do khi xảy ra nợ xấu, đa phần khách hàng trốn tránh, không hợp tác với TCTD để phối hợp xử lý, nên việc xác nhận này rất khó thực hiện.

“Ngoài ra, Nghị quyết 42 chỉ quy định áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBÐ, tranh chấp về quyền xử lý TSBÐ của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu, mà chưa quy định được áp dụng thủ tục rút gọn đối với các tranh chấp hợp đồng tín dụng của các TCTD với khách hàng vay”, vị giám đốc AMC thông tin.

Vướng mắc vẫn chồng... vướng mắc

Ðiều 14 - Nghị quyết 42 mới chỉ quy định về việc hoàn trả TSBÐ là vật chứng trong vụ án hình sự cho các TCTD, mà chưa quy định về việc hoàn trả TSBÐ là tang vật của các vụ việc hành chính cho các TCTD. Trên thực tế xảy ra nhiều vụ việc TSBÐ là phương tiện vận tải bị cơ quan công an tịch thu, tạm giữ do là tang vật trong vụ việc vi phạm bị xử lý hành chính, hoặc do vi phạm luật giao thông đường bộ.

Các cơ quan nhà nước không hoàn trả các TSBÐ này cho TCTD do chưa có văn bản pháp luật quy định. Trong trường hợp này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính như xử lý bán đấu giá TSBÐ là tang vật của vụ án hành chính theo quyết định xử lý vi phạm hành chính, số tiền thu được từ việc xử lý tài sản này sẽ được sử dụng theo quy định của pháp luật mà không chuyển cho TCTD.

“Như vậy, việc xử lý TSBÐ là tang vật trong vụ việc vi phạm hành chính đã gây thiệt hại cho TCTD (TCTD bị mất TSBÐ). Trường hợp cơ quan nhà nước trả lại TSBÐ cho chủ tài sản - bên bảo đảm, sẽ làm kéo dài thời gian xử lý nợ của TCTD”, một nhân viên xử lý nợ của Vietcombank than thở.

Vị phó tổng giám đốc phụ trách pháp chế cho biết, TCTD thực hiện quyền thu giữ tài sản theo quy định tại Khoản 2, Ðiều 7 - Nghị quyết 42 khi bên bảo đảm không tự nguyện bàn giao TSBÐ theo yêu cầu của TCTD. Khi tiến hành thu giữ tài sản, chủ tài sản bất hợp tác, chống đối hoặc không có mặt theo thông báo và TCTD phải lập biên bản thu giữ TSBÐ có sự chứng kiến và ký biên bản của đại diện ủy ban nhân cấp xã nơi tiến hành thu giữ TSBÐ theo đúng quy định tại Khoản 5, Ðiều 7 - Nghị quyết 42. Như vậy, về pháp lý, biên bản thu giữ TSBÐ có xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã có giá trị tương đương và có thể thay thế cho văn bản bàn giao tài sản thế chấp.

“Tuy nhiên, do Thông tư 24/2014/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường chưa quy định thành phần hồ sơ đăng ký biến động quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất trong trường hợp TCTD thực hiện quyền thu giữ TSBÐ theo quy định tại Ðiều 7 - Nghị quyết 42 để xử lý tài sản thế chấp, nên nhiều văn phòng đăng ký đất đai không chấp nhận biên bản thu giữ TSBÐ và từ chối việc đăng ký biến động cho người mua tài sản thế chấp.

Việc khó khăn trong sang tên tài sản khiến các cá nhân, tổ chức có nhu cầu không muốn mua tài sản do các TCTD thu giữ, phát mại theo Nghị quyết 42, dẫn đến làm chậm trễ quá trình xử lý nợ xấu của các TCTD”, vị phó tổng giám đốc phụ trách pháp chế nhấn mạnh.

Ðặc biệt, tranh chấp tài sản đang là vấn đề phức tạp nhất, gây khó khăn nhất đối với các TCTD trong quá trình xử lý TSBÐ nếu không có quy định rõ ràng. Ðối với vấn đề này, tại Ðiểm d, Khoản 2, Ðiều 7 - Nghị quyết 42 quy định: “TSBÐ không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý, nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại tòa án có thẩm quyền; không đang bị tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật”.

Dù vậy, hiện chưa có hướng dẫn thế nào là tài sản đang tranh chấp, dẫn đến cách hiểu về tài sản tranh chấp giữa các cơ quan tố tụng tại nhiều nơi, nhiều cấp khác nhau, gây khó khăn cho các TCTD trong việc xác định TSBÐ nào đang tranh chấp khi xử lý TSBÐ theo Nghị quyết 42.

“Liên quan đến những nội dung trên, các TCTD đã nhiều lần có văn bản kiến nghị các cơ quan nhà nước xem xét tháo gỡ, nhưng đến nay hầu như vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng. Vì vậy, mục tiêu giải quyết nhanh, dứt điểm nợ xấu tại các TCTD của Nghị quyết 42 chưa đạt được kết quả như mong đợi”, vị phó tổng giám đốc phụ trách pháp chế nói.                     

Tin bài liên quan