5 năm đại phẫu ngân hàng: Sức khỏe hệ thống cải thiện; nhà băng vẫn rót nhiều vốn vào "sân sau"

0:00 / 0:00
0:00
Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), một số tổ chức tín dụng (TCTD) đang cho vay tỷ trọng lớn với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao như kinh doanh bất động sản, tập trung tín dụng vào các khách hàng lớn (đặc biệt là các khách hàng có liên quan đến chủ sở hữu của ngân hàng)…
5 năm đại phẫu ngân hàng: Sức khỏe hệ thống cải thiện; nhà băng vẫn rót nhiều vốn vào "sân sau"

Sức khỏe hệ thống ngân hàng cải thiện rõ rệt sau 5 năm tái cơ cấu

Theo báo cáo của Chính phủ, kết quả cơ cấu lại các tổ chức tín dụng 5 năm qua (2021-2025) đạt được nhiều kết quả tích cực. NHNN đã tích cực triển khai nhiệm vụ cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng; Tiếp tục hoàn thiện khung pháp luật về xử lý nợ xấu, chấm dứt tình trạng sở hữu chéo; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ số trong lĩnh vực ngân hàng và phát triển những sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại; Tăng cường năng lực tài chính, quản trị và chất lượng tín dụng của các TCTD, QTDND bảo đảm hoạt động an toàn, hiệu quả, ổn định và bền vững và các nhiệm vụ về cơ cấu lại và phát triển doanh nghiệp nhà nước thuộc chức năng quản lý của NHNN.

Đến nay, hầu hết các TCTD đã hoàn thành việc phê duyệt và đang triển khai thực hiện phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025, trong đó có giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, đẩy mạnh xử lý nợ xấu, nâng cao năng lực quản trị điều hành, ứng dụng khoa học công nghệ,...

Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống các TCTD (không bao gồm 05 ngân hàng thương mại (NHTM) đang kiểm soát đặc biệt) đến cuối tháng 7/2025 ở mức 1,69%.

Hiện tất cả các NHTM (không bao gồm các ngân hàng yếu kém) đều đã áp dụng Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn. Đến nay, đã có 90 TCTD (04 NHTMNN, 25 NHTMCP, 11 ngân hàng liên doanh, 100% vốn nước ngoài và 50 CNNHNNg) triển khai áp dụng tỷ lệ an toàn vốn theo Thông tư số 41/2016/TT-NHNN. Hiện chỉ còn một ngân hàng chưa áp dụng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Thông tư số 41/2016/TT-NHNN.

Theo báo cáo, hầu hết các TCTD đều đáp ứng quy định về một số tỷ lệ đảm bảo an toàn gồm: Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung và dài hạn, tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi.

Sau 5 năm tái cơ cấu, sự ổn định, an toàn của hệ thống các TCTD tiếp tục được giữ vững, quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền được bảo đảm, củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào hệ thống ngân hàng.

Đến nay, đã có 4 ngân hàng yếu kém được chuyển giao bắt buộc thành công. Phương án tái cơ cấu SCB đang được trình các cấp thẩm quyền.

Việc xử lý nợ xấu đạt nhiều kết quả tích cực. Tính từ năm 2021 đến cuối tháng 7/2025, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được hơn 1,1 triệu tỷ đồng nợ xấu. Trong đó, TCTD tự xử lý 998.400 tỷ đồng (chiếm 87,1% trong tổng nợ xấu được xử lý), còn lại là bán nợ (bao gồm bán cho Công ty Quản lý tài sản - VAMC và tổ chức, cá nhân khác) 147.700 tỷ đồng, chiếm 12,9% trong tổng nợ xấu được xử lý.

Việc thoái vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp tiếp tục được thực hiện quyết liệt. Trong 5 năm qua, 4 NHTM Nhà nước đã thu về số tiền là 8.399,4 tỷ đồng thông qua thoái vốn.

Tín dụng lĩnh vực rủi ro và cho vay sân sau còn phức tạp

Bên cạnh các thành tựu đạt được, Chính phủ cũng thẳng thắn nhìn nhận, việc cơ cấu lại các TCTD vẫn tồn tại một số bất cập, hạn chế.

Cụ thể, việc xử lý đối với một số TCTD yếu kém còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về hành lang pháp lý cũng như cơ chế hỗ trợ đối với TCTD tham gia xử lý/nhận chuyển giao bắt buộc các TCTD yếu kém. Một số TCTD tiến độ triển khai phương án cơ cấu lại còn chậm, chưa đảm bảo hoàn thành kế hoạch đã đặt ra tại phương án cơ cấu lại.

Nợ xấu đã xử lý được một bước quan trọng nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với an toàn, hiệu quả hoạt động của các TCTD. Nợ xấu hiện đang tập trung chủ yếu ở các TCTD yếu kém, tuy nhiên chưa thể xử lý nhanh được do nhiều khoản nợ liên quan đến vụ án, hồ sơ pháp lý chưa hoàn chỉnh và khả năng trích lập dự phòng rủi ro của TCTD còn hạn chế.

"Bên cạnh đó, một số TCTD cấp tín dụng tập trung với tỷ trọng lớn đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao như kinh doanh bất động sản, tập trung tín dụng vào các khách hàng lớn và người có liên quan (đặc biệt là các khách hàng có liên quan đến chủ sở hữu của ngân hàng), các dự án bất động sản cao cấp, có tính đầu cơ...; hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của một số TCTD còn tồn tại một số rủi ro", báo cáo của Chính phủ nêu rõ.

Ngoài ra, Chính phủ cũng cho rằng, công tác kiểm soát, kiểm toán, kiểm tra nội bộ của một số TCTD chưa kịp thời, hiệu quả, để phát sinh những tồn tại lớn, kéo dài, ảnh hưởng đến hoạt động của TCTD.

Những lo ngại về an ninh an toàn khi sử dụng các phương thức thanh toán điện tử, trực tuyến còn phổ biến; Mạng lưới chi nhánh, cơ sở hạ tầng thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, trung gian thanh toán còn chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị, chưa phủ khắp ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa; quy định pháp lý về hoạt động giao đại lý thanh toán đang triển khai, cần có thời gian để hướng dẫn triển khai, đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn.

Công tác phòng, chống gian lận, lừa đảo trực tuyến, tội phạm sử dụng công nghệ cao trong thanh toán điện tử gặp một số khó khăn do tội phạm công nghệ cao hoạt động ngày càng tinh vi, xuyên biên giới, có tổ chức chuyên nghiệp với các thủ đoạn phức tạp, mua bán lừa đảo, cập nhật liên tục; Tội phạm lợi dụng hoạt động thanh toán cho các hoạt động bất hợp pháp diễn biến phức tạp, có xu hướng gia tăng (như cờ bạc, lừa đảo, gian lận thương mại, trôn thuê, ma túy,...).

Nguyên nhân dẫn tới những hạn chế trên là do tình hình quốc tế biến động phức tạp, khó lường. Trong nước, sức ép cung ứng vốn cho nền kinh tế của hệ thống ngân hàng vẫn lớn trong bối cảnh thị trường tài chính phát triển chưa cân xứng, tiềm ẩn rủi ro kỳ hạn, thanh khoản lớn đối với hệ thống ngân hàng (huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn).

Việc cơ cấu lại các Tập đoàn/Tổng công ty nhà nước phải được sự chấp thuận của các cấp thẩm quyền. Do vậy, để các TCTD phi ngân hàng yếu kém có chủ sở hữu/cổ đông lớn là các Tập đoàn/Tổng Công ty Nhà nước tái cơ cấu thành công cần có sự hỗ trợ, chỉ đạo về định hướng cơ cấu lại từ các Bộ, ngành chủ quản, Tập đoàn/Tổng công ty nhà nước đối với phương án cơ cấu lại của các TCTD phi ngân hàng yếu kém. Bên cạnh đó, nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước vẫn đang gặp khó khăn về tài chính, thiếu nguồn lực để xử lý tổn thất và thực hiện cơ cấu lại một số TCTD phi ngân hàng.

Công tác thanh tra, giám sát ngân hàng mặc dù đã có những bước đi tích cực như tăng cường giám sát trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin, ban hành văn bản về quản trị nội bộ, cẩm nang giám sát, hành lang pháp lý về quản trị ngân hàng theo Basel II... nhưng nguồn lực còn hạn chế, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao, còn nhiều bất cập cần tiếp tục được rà soát, đổi mới.

Tin bài liên quan