ABBank (ABB) đã sử dụng 99% hạn mức tín dụng, kỳ vọng được nới room trong quý III

ABBank (ABB) đã sử dụng 99% hạn mức tín dụng, kỳ vọng được nới room trong quý III

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Thông tin trên được bà Nguyễn Thị Hương, Phó tổng giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình - ABBank (mã chứng khoán ABB) chia sẻ trong Talkshow Chọn danh mục kỳ 12 với chủ đề: Khơi dòng vốn sản xuất kinh doanh do Báo Đầu tư Chứng khoán tổ chức chiều ngày 14/7.

Bà Hương đánh giá, công cụ kiểm soát tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nhiều năm qua đã đóng góp vào kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định thị trường tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Vào đầu mỗi năm, NHNN đều có định hướng cho hệ thống về tỷ lệ tăng trưởng tín dụng trong năm và các tổ chức tín dụng đều nhận được mức tăng trưởng tín dụng. Trong 6 tháng đầu năm 2022, sau 2 năm ảnh hưởng của dịch, tăng tín dụng cả hệ thống đạt 9,35% so với cuối năm 2021 - cao hơn hai năm 2020, 2021 chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh và tăng 16,69% so với cùng kỳ.

“Điều này cho thấy sự phục hồi của nền kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng trưởng tích cực, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế được cải thiện là tín hiệu tốt đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cả nước trong 6 tháng đầu năm”, bà Hương cho biết.

Đối với An Bình, năm nay là năm tích cực khi ngân hàng có sự tăng trưởng tín dụng ngay từ những tháng đầu năm. Đến hết tháng 6/2022, ABB đã sử dụng 99% hạn mức tín dụng được NHNN thông báo từ đầu năm. Vào giai đoạn cuối năm, ngân hàng này kỳ vọng sẽ có sự mở rộng room tín dụng, cụ thể là quý III, sau khi đã gửi công văn lên NHNN.

Chính sách tiền tệ làm tốt vai trò 6 tháng đầu năm

Bà Hương cho rằng, trước tiên, nhìn nhận lại bối cảnh điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trong 6 tháng đầu năm chịu rất nhiều tác động ngoại cảnh. Mặt khác, nhìn vào bức tranh lạm phát của các nước: Mỹ đã công bố lạm phát thời điểm tháng 5 và gần đây là tháng 6 trên 8% - mức rất cao; châu Âu là 8,6%; Anh là 9,1%. Nhìn trong châu Á, Hàn Quốc là 6%, Singapore lần đầu tiên trong lịch sử lạm phát tăng đến 5,6%, Philippine trên 6% và Thái Lan 7,6%.

Như vậy, bức tranh lạm phát đã xuất hiện ở hầu hết các nước trên thế giới và trước bối cảnh này, các ngân hàng trung ương đều phải thực hiện động thái thắt chặt chính sách tiền tệ bằng tăng lãi suất. Điển hình trong 6 tháng đầu năm, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) 3 lần điều chỉnh tăng lãi suất, lần sau cao hơn lần trước, đến nay đưa mức lãi suất của Fed Fund Rate lên từ 1,25 - 1,7%. Ngân hàng Trung ương Anh 6 lần tăng lãi suất, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cũng đã tăng lãi suất liên tiếp.

Dự kiến vào cuộc họp ngày 27/7 tới đây, Fed sẽ tiếp tục tăng lãi suất, thị trường cũng dự đoán mức tăng tối thiểu là 0,75 điểm phần trăm. Các tháng tiếp theo vào tháng 9, 11, 12 cũng có sự điều chỉnh, có thể là 0,25 điểm phần trăm cho mỗi lần. Cuộc họp của ECB cũng dự kiến tăng lãi suất lên mức dương thay vì mức âm duy trì suốt từ năm 2014.

Ở châu Á, Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc liên tiếp tăng lãi suất, Malaysia có mức lạm phát chỉ khoảng 2,8% nhưng nước này cũng thận trọng và tăng lãi suất. Với bối cảnh lạm phát và tăng lãi suất các nước liên tục điều chỉnh, Phó tổng giám đốc ABB khẳng định, việc điều hành chính sách tiền tệ và kết quả đạt được rất phù hợp với ổn định kinh tế vĩ mô.

Thứ nhất, NHNN đã giữ ổn định các mức lãi suất điều hành như:lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường điện tử liên ngân hàng, lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn đều giữ nguyên và ổn định, giúp các ngân hàng thương mại có thể tiếp cận với các nguồn vốn vay của NHNN với mức lãi suất thấp và tạo điều kiện cho các ngân hàng ổn định mức lãi suất cho vay.

Thứ hai, NHNN đã có sự điều tiết tính linh hoạt thanh khoản trên thị trường tiền tệ thông qua các nghiệp vụ trên thị trường mở. Lãi suất tiền tệ được duy trì ở mức rất thấp như hiện nay, với lãi suất qua đêm chỉ từ 0,7 - 1%, hay lãi suất kỳ hạn một tháng chỉ khoảng 2,5%. Đây là mức lãi suất rất thấp giúp cho các ngân hàng có thể tiếp cận với nguồn vốn thực hiện nhu cầu thanh khoản với chi phí rất thấp.

Thứ ba, tỷ giá trung tâm cũng được điều hành rất linh hoạt phù hợp với diễn biến trong nước cũng như quốc tế giúp ổn kinh tế vĩ mô.

Thứ tư, kiểm soát tăng trưởng tín dụng trên toàn hệ thống với mức mà NHNN định hướng là 14% trong năm nay và 6 tháng được là 9,35%. Do đó, vẫn có những dư địa để đạt 14% đến cuối năm.

Đồng thời, với kiểm soát quy mô tín dụng, NHNN cũng định hướng các ngân hàng thương mại tập trung gắn liền với chất lượng tín dụng và định hướng tín dụng đi vào các lĩnh vực sản xuất, ưu tiên; kiểm soát chặt chẽ tín dụng cho các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như chứng khoán, bất động sản hay dự án BOT giao thông.

Bà Nguyễn Thị Hương, Phó tổng giám đốc ABBank (phải) chia sẻ tại Talkshow Chọn Danh mục kỳ 12 do Báo Đầu tư Chứng khoán tổ chức ngày 14/7. Ảnh: Dũng Minh

Bà Nguyễn Thị Hương, Phó tổng giám đốc ABBank (phải) chia sẻ tại Talkshow Chọn Danh mục kỳ 12 do Báo Đầu tư Chứng khoán tổ chức ngày 14/7. Ảnh: Dũng Minh

“Tôi tin rằng, với khả năng về mặt tài chính được tăng cường và năng lực quản trị của các ngân hàng trong thời gian vừa qua, đặc biệt là về nguồn vốn được bổ sung thông qua các đợt tăng vốn của những năm trước đây, năng lực điều hành, kiểm soát của các ngân hàng thương mại có thể giúp các ngân hàng mở rộng tín dụng một cách lành mạnh trong những tháng tiếp theo của năm 2022”, bà Hương nhấn mạnh.

Một yếu tố nữa khiến ABB tin tưởng tăng trưởng tín dụng trong những tháng cuối năm là chỉ số lạm phát. Trong khi bức tranh lạm phát của các nước rất cao, thì lạm phát của Việt Nam, chỉ số CPI đến hết tháng 6 trung bình ở mức 2,44%, là mức rất thấp so với các nước trên thế giới và khu vực.

Đặc biệt, chỉ số lạm phát cơ bản (sau khi loại bỏ các cú sốc) chỉ ở mức 1,25% trung bình trong 6 tháng qua. Điều này cho thấy mức tăng CPI chủ yếu do lạm phát nhập khẩu, còn các chỉ số trong nước vẫn ổn định và ở dưới mức mục tiêu kiểm soát.

Có cùng quan điểm, ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Khối Nghiên cứu và Phát triển sản phẩm khách hàng cá nhân CTCK Yuanta Việt Nam nhìn nhận, hệ thống thanh khoản của các ngân hàng vừa qua khá tốt, nhờ các ngân hàng nhiều năm trước đã tranh thủ tăng vốn, đảm bảo tính thanh khoản của mình.

Về dư địa chính sách tiền tệ, ông Minh cũng cho rằng, còn nhiều dư địa để có thể kiểm soát tình hình vĩ mô cuối năm.

Về lãi suất, trước mắt, có những bức tranh kỳ vọng lạm phát các tháng tới đạt đỉnh, đặc biệt tháng 7 - tương đồng các dự báo của các tổ chức tài chính thế giới về việc lạm phát có thể đạt đỉnh và hạ nhiệt dần về cuối năm. Theo đó, áp lực lạm phát và lãi suất có thể trở nên nhẹ nhàng hơn trong thời gian tới, trong khi thời gian qua đã khá căng thẳng.

Về tỷ giá, sau năm 2021 gặp khó khăn vì dịch bệnh, trong năm 2022, khi xuất khẩu tăng trưởng trở lại, thì thặng dư đạt 7,2 tỷ USD. Nguồn lực dồi dào như lúc này sẽ có dư địa để ổn định tỷ giá trong bối cảnh đồng USD chưa hạ nhiệt.

Tin bài liên quan