Cần giảm sức ép cho chính sách tiền tệ

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Theo giới chuyên gia ngân hàng, chính sách tài khóa cần tiếp tục đi đầu về hỗ trợ khả năng chống chịu và tăng trưởng trong dài hạn, trong điều kiện dư địa của chính sách tiền tệ đã bị hạn chế do chênh lệch lãi suất kéo dài và áp lực về tỷ giá.

“Dư địa của chính sách tiền tệ đã bị hạn chế”

Ông Sacha Dray, Chuyên gia kinh tế Ngân hàng Thế giới (WB)

Ông Sacha Dray, Chuyên gia kinh tế Ngân hàng Thế giới (WB)

Xung quanh chính sách tiền tệ, trọng tâm liên quan tới quản lý hối đoái cũng như mở rộng tín dụng, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hỗ trợ đồng nội tệ thông qua chế độ về tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý và mức độ giảm giá đồng tiền ổn định khoảng 3% mỗi năm. Tuy nhiên, vẫn còn những áp lực đối với đồng nội tệ bởi các yếu tố trong nước và nước ngoài, trong đó áp lực chính là chênh lệch giữa lãi suất của các đồng tiền lớn như USD và đồng nội tệ.

Tiếp theo, Ngân hàng Nhà nước vẫn tiếp tục duy trì lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu ở mức thấp kỷ lục kể từ tháng 6/2023. Chính sách tiền tệ nới lỏng đã hỗ trợ nền kinh tế phục hồi, với lãi suất chính sách thực về gần bằng 0. Cùng với đó, tín dụng ngân hàng tăng mạnh, lên đến 18,1% trong 6 tháng đầu năm 2025 (so cùng kỳ), chủ yếu do Ngân hàng Nhà nước phân bổ sớm chỉ tiêu tín dụng cho các ngân hàng.

Tín dụng cao hơn so với mức lịch sử và việc trả nợ bằng USD trong nửa đầu năm cũng làm tăng áp lực giảm giá tiền đồng trong bối cảnh chính sách thuế quan cao, cán cân thương mại có thể bị suy giảm khiến nguồn ngoại tệ ước tính giảm. Đáng chú ý, vẫn còn yếu tố bất định liên quan đến động thái Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm lãi suất, nhưng Ngân hàng Nhà nước đã cam kết hỗ trợ cho đồng nội tệ cũng như đã có những biện pháp can thiệp trực tiếp vào thị trường, như phát hành tín phiếu kho bạc và triển khai hoạt động bán ngoại tệ kỳ hạn, có hủy ngang trong 180 ngày với giá bán 26.550 đồng/USD đối với các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ âm.

Việc đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng khiến cho chất lượng tín dụng có thể ảnh hưởng và nợ xấu mới dự kiến sẽ tăng lên trong trung hạn trong trường hợp các ngân hàng nới lỏng các tiêu chuẩn cho vay. Đồng thời, dự phòng trong khu vực ngân hàng sẽ giảm, nếu quản lý rủi ro dựa trên tài sản thế chấp. Tỷ lệ dự phòng rủi ro nợ xấu đã giảm gần một nửa trong ba năm qua, qua đó cho thấy năng lực hấp thụ tổn thất của khu vực ngân hàng đã và đang bị suy giảm đáng kể. Nhưng những rủi ro tiềm tàng liên quan đến tái cấu trúc nợ, gia hạn thời gian trả nợ và tỷ lệ dự phòng rủi ro vẫn còn đó.

Chính sách tài khóa cần tiếp tục đi đầu về hỗ trợ khả năng chống chịu và tăng trưởng trong dài hạn, trong điều kiện dư địa của chính sách tiền tệ đã bị hạn chế do chênh lệch lãi suất kéo dài và áp lực về tỷ giá. Tăng cường tính ổn định của khu vực tài chính vẫn là yêu cầu sống còn, cần được thực hiện qua yêu cầu cải thiện về tỷ lệ an toàn vốn, nâng cao giám sát an toàn, tăng cường các nhiệm vụ theo quy định pháp luật cho Ngân hàng Nhà nước, đặc biệt liên quan đến quản lý khủng hoảng và giám sát các tập đoàn.

“Lãi suất sẽ ổn định và tỷ giá giảm bớt sức ép”

Ông Nguyễn Hưng, Tổng giám đốc TPBank
Ông Nguyễn Hưng, Tổng giám đốc TPBank

Lãi suất sẽ được giữ ở mức ổn định và tỷ giá giảm bớt sức ép do nhiều khả năng Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) giảm lãi suất trong các tháng cuối năm, cũng như có một số đợt hạ lãi suất trong năm sau. Trong bối cảnh Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% và cũng để khuyến khích xuất khẩu, rõ ràng, cần giữ ổn định tỷ giá. Do đó, có thể tin tưởng rằng, chính sách tiền tệ từ nay đến cuối năm và kể cả năm 2026 vẫn được giữ ổn định. Thị trường đã có những khởi sắc hơn, những tháng cuối năm được kỳ vọng có những dấu hiệu tích cực để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP đã được đặt ra.

Liên quan đến câu chuyện tăng trưởng tín dụng, Ngân hàng Nhà nước luôn phải cân bằng giữa tăng trưởng tín dụng và lạm phát, vì tăng trưởng bây giờ nhưng có thể gây ra lạm phát ở các năm sau. Tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đang khá tốt, khi so với các năm trước đều có mức tăng cao hơn. Mức tăng trưởng tín dụng bình quân toàn ngành hiện vào khoảng 12 - 13% so với đầu năm. TPBank đã tăng trưởng tín dụng 15%. Ngân hàng Nhà nước đã có hai đợt phân bổ room tín dụng cho các ngân hàng và đến thời điểm hiện tại, mức tăng trưởng bình quân toàn ngành khoảng trên 16% và TPBank là trên 18%. Ngân hàng Nhà nước cấp hạn mức bao nhiêu, TPBank đều sử dụng hết.

Dự kiến, vào cuối năm, có thể Ngân hàng Nhà nước sẽ xem xét lại việc phân bổ room tín dụng. Nếu như ngân hàng nào chưa dùng hết room thì sẽ được phân bổ cho các ngân hàng khác có khả năng tăng trưởng tốt hơn. Hiện tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng có vốn Nhà nước chi phối đang thấp hơn nhóm ngân hàng thương mại cổ phần.

“Cải cách thị trường vàng để nguồn lực quốc gia được luân chuyển”

Ông Nguyễn Minh Tuấn, Giám đốc điều hành kiêm đồng sáng lập Cộng đồng Cố vấn tài chính Việt Nam (VWA)
Ông Nguyễn Minh Tuấn, Giám đốc điều hành kiêm đồng sáng lập Cộng đồng Cố vấn tài chính Việt Nam (VWA)

Nếu coi vàng vừa là tiền tệ vừa là hàng hóa thì rất khó để kiểm soát. Nhưng nếu bỏ được chức năng tiền tệ, nói cách khác là không gửi vay rồi thanh toán bằng vàng và coi đây là một loại hàng hóa thông thường thì việc quản lý thị trường vàng sẽ đơn giản hơn. Khi đó, chúng ta sẽ có không phải là một, mà rất nhiều thương hiệu vàng và vàng được xem như một loại hàng hóa giao dịch trên Sở Giao dịch hàng hóa quốc gia. Đây không phải là sàn vàng, mà là địa điểm giao dịch vàng vật chất. Hay nói cách khác, khi người dân mua vàng, vàng được lưu ký bởi một đơn vị có uy tín và khi cần, người dân có thể bán vàng.

Lâu nay, chúng ta thường hay e ngại nếu ủng hộ vàng, người dân mua về sẽ cất két, trong khi đáng lẽ dòng tiền này được gửi ngân hàng, hay tiền phải đầu tư cổ phiếu… thì nguồn lực của quốc gia mới được luân chuyển. Nhưng nếu cải cách thị trường vàng, thị trường này có thể trở thành một thị trường tài chính tích hợp tổng thể nhu cầu tăng trưởng vốn của người dân trong giai đoạn tới, bởi đây cũng là một lớp tài sản.

Chính phủ đang có một bộ công cụ quản lý mới đối với thị trường này, cụ thể, cấp phép có điều kiện nhằm đảm bảo những tổ chức có năng lực mới có thể tham gia thị trường. Tiếp theo, mọi giao dịch vàng sẽ được thực hiện trên tài khoản nhằm tăng tính minh bạch hay kết nối dữ liệu hóa đơn điện tử để kiểm soát lưu thông và chống gian lận. Sau đó, định hình Sở Giao dịch vàng quốc gia, thông qua Sở Giao dịch hàng hóa và khi đó, vàng giao dịch giống như cổ phiếu.

Chúng ta hiện đang trong giai đoạn đầu tiên là thiết lập các nền tảng: ban hành các nghị định, xây dựng công bố tiêu chuẩn kỹ thuật và có thể là sandbox (thử nghiệm về mặt công nghệ, kết nối giữa doanh nghiệp, ngân hàng và Ngân hàng Nhà nước). Khi Nghị định 232/2025/NĐ-CP ngày 26/8/2025 sửa đổi, bổ sung Nghị định 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng có hiệu lực, thị trường sẽ đi đến giai đoạn hai là triển khai và giám sát.

Cụ thể, giám sát các giao dịch trên 20 triệu đồng, cấp phép, kiểm tra kết nối các dữ liệu… Tiếp đó đến giai đoạn ba là hoàn thiện và mở rộng với mục tiêu quan trọng là thành lập Sở Giao dịch vàng. Đây là mục tiêu cuối cùng, hướng tới để có thể cải cách thị trường vàng.

Tin bài liên quan