Doanh nghiệp ngành bia quan ngại về phương án tính thuế tiêu thụ đặc biệt

Doanh nghiệp ngành bia quan ngại về phương án tính thuế tiêu thụ đặc biệt

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) VAFI chỉ ra những bất cập lớn của việc xác định thuế tiêu thụ đặc biệt theo phương pháp hỗn hợp và cách tính này không đảm bảo công bằng với mọi doanh nghiệp.

Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) sửa đổi đang được khẩn trương xây dựng, trong đó ngành bia có những định hướng cơ bản là tăng thuế tiêu thụ đặc biệt để giá bán các sản phẩm này tăng ít nhất 10% nhằm hạn chế tiêu dùng bia cho mục đích bảo vệ sức khỏe nhân dân, điều tiết tăng thu ngân sách nhà nước và thông điệp chính sách là phải bảo đảm môi trường kinh doanh cạnh tranh minh bạch công bằng cho các doanh nghiệp.

Tại tờ trình đề nghị xây dựng Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt của Bộ Tài chính và Nghị quyết 115 ngày 28/7/2023 của Chính phủ việc điều chỉnh tăng thuế tiêu thụ đặc biệt được đưa ra 2 phương án.

Phương án 1 là giữ nguyên phương pháp tính thuế hiện tại và tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt theo lộ trình phù hợp với khuyến nghị của Tổ chức Thương mại thế giới (WHO).

Phương án 2 là điều chỉnh tăng thuế bằng cách áp dụng phương pháp tính thuế hỗn hợp (vừa áp dụng thuế tương đối theo tỷ lệ phần trăm, vừa bổ sung thêm một mức thuế tuyệt đối đối với mặt hàng rượu, bia).

Thay đổi từ phương pháp tương đối sang phương pháp hỗn hợp dẫn đến tình tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”?

Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) trong văn bản gửi Thủ tướng và các bộ ban ngành mới đây đã chỉ ra những bất cập lớn của việc xác định thuế tiêu thụ đặc biệt theo phương pháp hỗn hợp và cách tính này không đảm bảo công bằng với mọi doanh nghiệp.

VAFI cho rằng, cách xác định mức thuế tuyệt đối cần tuân thủ các nguyên tắc, trong đó xác định mức thuế tuyệt đối theo phương pháp nào cũng phải dựa trên giá bán các loại bia chưa có thuế. Ngoài ra, việc xác định mức thuế tuyệt đối cũng phải bảo đảm nguyên tắc thu đủ thuế TTĐB như phương pháp tương đối đồng thời phải đảm bảo tính công bằng cho mọi doanh nghiệp đối với nghĩa vụ nộp thuế TTĐB.

Do đó, VAFI đưa ra 3 mức thuế tuyệt đối từ cao đến thấp để phân tích trên sở lấy 3 giá bán bình quân. Cụ thể, VAFI lấy giá bình quân của Heineken đang là giá cao nhất trong ngành, đại diện cho bia cao cấp và cận cao cấp. Tiếp đến lấy giá bán bình quân của 4 công ty (Heineken, Sabeco, Habeco, Carlsberg) và cuối cùng là lấy giá bán bình quân của bia bình dân thuộc các doanh nghiệp nhỏ và vừa – đang đáp ứng nhu cầu cao của người dân thu nhập thấp và người dân tại các địa phương.

VAFI cũng đưa ra 6 kịch bản, trong 6 kịch bản đưa ra, VAFI cho rằng Heineken Việt Nam là doanh nghiệp sẽ luôn có thuế phần trăm thực tế thấp nhất vì giá bán của Heineken cao hơn nhiều so với tất cả hãng khác.

Cũng theo tính toán của VAFI, Heineken cũng là doanh nghiệp hưởng lợi lớn nhất từ việc bổ sung mức thuế tuyệt đối. Việc Heineken hưởng lợi bao nhiêu thì các doanh nghiệp khác trong ngành sẽ thiệt hại bấy nhiêu, thậm chí tiến tới phá sản.

Theo VAFI, việc đưa ra 6 mức thuế tuyệt đối để tính toán phân tích, bao trùm hết các phương án tình huống mà Bộ Tài chính có thể đưa ra nhưng không có phương án nào khả thi, tạo sự bình đẳng công bằng giữa các doanh nghiệp, mà tất cả phương án chỉ tạo ưu đãi về thuế và nhiều lợi thế cạnh tranh hơn cho Heineken, trong khi tất cả doanh nghiệp ngành bia phải đóng thuế TTĐB nhiều hơn so với Heineken (về mặt tương đối) và nhiều hơn so với cách tính thuế tương đối.

Doanh nghiệp Việt khó càng thêm khó

Theo ông Nguyễn Văn Việt, Chủ tịch Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam (VBA), ngành bia đã có một thời gian dài chịu tác động của các biện pháp giãn cách xã hội do đại dịch Covid-19 và chịu thêm tác động từ các chính sách quản lý chuyên ngành và Nghị định 100 (quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt) với chế tài rất nặng áp dụng khi điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn.

“Tất cả đã khiến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành đồ uống bị thiệt hại nặng nề, thị trường tiêu thụ giảm 20% - 30%, doanh thu toàn ngành đồ uống giảm tới 16% so với năm 2019. Thêm vào đó, xung đột Nga - Ukraine đã và đang gây khủng hoảng trong chuỗi cung ứng toàn cầu đã làm trầm trọng hơn nữa những khó khăn của ngành đồ uống khiến giá nguyên liệu tăng phi mã”, Chủ tịch VBA cho hay.

Trong khi đó, VIRAC Research tại báo cáo “Tổng quan ngành bia đầu năm 2023 - Thách thức và cơ hội cho sự phục hồi nửa cuối năm” nhận định rằng, Nghị định 100 sẽ tiếp tục là rào cản lớn kìm hãm sự phục hồi của ngành bia trong năm nay. Chưa kể, các yếu tố như giá nguyên liệu sản xuất dự kiến tiếp tục tăng mạnh, ảnh hưởng đến lợi nhuận.

Cụ thể, một số nguyên liệu chính trong sản xuất bia gồm bột trợ lọc dự kiến tăng khoảng 25%, hoa houblon tăng 10%, gạo tăng 4%, đường tăng khoảng 8%. Đặc biệt, với malt là nguyên liệu đầu vào chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản xuất dự kiến tăng khoảng 60% so với mức giá bình quân thu mua năm 2022.

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư bên lề Hội thảo khoa học “Góp ý xây dựng Dự án Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) tháng 7 năm 2023", đại diện VBA cho biết, việc tăng thuế sẽ làm tăng gánh nặng tài chính đối với doanh nghiệp và vì vậy, doanh nghiệp cần phải có đủ thời gian để chuẩn bị và lên kế hoạch sản xuất kinh doanh. Do đó, VBA nhận thấy không nên nóng vội, rút ngắn hay bỏ qua các yêu cầu, quy trình cần thiết khi sửa đổi bổ sung một luật thuế quan trọng như thuế tiêu thụ đặc biệt.

Góp ý về phương pháp tính thuế, đại diện Công ty Tư vấn EY Việt Nam cho rằng, nên tiếp tục duy trì phương pháp tính thuế tương đối với rượu, bia và nghiên cứu điều chỉnh thuế suất theo lộ trình.

Lý giải cho đề xuất này, đại diện EY Việt Nam cho rằng, thuế tương đối có tính chất lũy tiến, sản phẩm có giá bán càng cao, số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp càng lớn. Về khía cạnh điều tiết thị trường, khi tính thuế theo tỷ lệ phần trăm thuế trên giá bán sẽ tạo ra sự công bằng tương đối cho các phân khúc hàng hoá, dịch vụ trên thị trường, vì người mua sẵn sàng trả mức giá nào cũng sẵn sàng trả mức thuế tương ứng. Dù vậy, mặt hạn chế là việc tính thuế căn cứ vào giá bán nên có thể gia tăng chi phí quản lý của nhà nước vì phải kiểm soát giá cả và cũng khó dự đoán nguồn thu ngân sách.

Do mỗi phương pháp tính thuế có những ưu và nhược điểm nhất định, do đó, ông Nguyễn Văn Phụng, nguyên Cục trưởng Cục Thuế Doanh nghiệp lớn (Tổng cục Thuế) đề nghị cần cân nhắc lựa chọn áp dụng phương pháp tính thuế. Các cơ quan tham mưu sẽ có những nghiên cứu kỹ lưỡng về những điều kiện cần và đủ, phân tích rõ và đánh giá bài toán lợi ích và chi phí để đề xuất áp dụng phương pháp tính thuế phù hợp nhất trong từng giai đoạn phát triển.

Tin bài liên quan