Ký quỹ giao dịch chứng khoán: Mức nào?

Ký quỹ giao dịch chứng khoán: Mức nào?

(ĐTCK) Trong khi các chuyên gia chứng khoán, thành viên thị trường và nhiều phương tiện truyền thông… liên tục lên tiếng kiến nghị Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) cho phép NĐT được giao dịch ký quỹ như một cách "cởi trói" năng lực giao dịch cho thị trường thì một số CTCK đã âm thầm triển khai nghiệp vụ này. CTCK đang phạm luật hay quy định hiện nay còn thiếu rõ ràng?

Giao dịch ký quỹ nhìn từ ABS

Hiện tại, hầu như CTCK nào cũng triển khai giao dịch ký quỹ ở những hình thức khác nhau. CTCK An Bình (ABS) đang triển khai nghiệp vụ này thông qua một sản phẩm cho phép NĐT chậm nộp tiền giao dịch chứng khoán: T+0, T+2. Với sản phẩm T+0, khi tài khoản NĐT đang có tổng giá trị chứng khoán (không bị thế chấp, cầm cố) là 100 triệu đồng, nếu có nhu cầu đầu tư tiếp, trong tài khoản NĐT chỉ cần có thêm 30 triệu đồng là có thể mua đến 100 triệu đồng giá trị chứng khoán. Việc chậm trả chỉ diễn ra từ buổi sáng đến 3 giờ chiều. Hết thời hạn kể trên, nếu không nộp đủ 70 triệu đồng còn thiếu trong ngày T+1, T+2, T+3, ABS sẽ bán số chứng khoán có sẵn trong tài khoản của NĐT để thu tiền thanh toán còn thiếu khi giao dịch ký quỹ.

Với sản phẩm T+2, NĐT được vay với tỷ lệ 70/30 (có 30% tiền mặt và chậm trả 70%) nhưng được chậm trả đến ngày T+2.

Hiện tại, giao dịch ký quỹ được thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Về mặt pháp lý, CTCK đứng ra bảo lãnh nghĩa vụ thanh toán cho NĐT. Với CTCK có ngân hàng đứng sau thì việc cho vay khi giao dịch ký quỹ do ngân hàng thực hiện. Còn CTCK không thông qua ngân hàng thì rủi ro sẽ rất lớn khi CTCK có thể lấy tiền từ tài khoản này để bù đắp sang tài khoản khác khi NĐT thực hiện giao dịch ký quỹ không có khả năng thanh toán.

Cho phép hay chưa?

Trước Luật Chứng khoán ra đời, UBCK (khi đó chưa sáp nhập về Bộ Tài chính) ban hành Quy chế thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch chứng khoán kèm theo Quyết định số 79/2000/QĐ-UBCK ngày 29/12/2000 quy định: "Khi đặt lệnh mua, bán chứng khoán, số dư tài khoản của khách hàng mở tại thành viên phải đáp ứng quy định ký quỹ tương đương 100% giá trị chứng khoán đặt mua hoặc đủ số lượng chứng khoán đặt bán". Như vậy, NĐT không được phép mua chứng khoán khi không có đủ 100% tiền trong tài khoản. Quyết định số 50/2003/QĐ-BTC ngày 15/4/2003 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của văn bản trên quy định: "Khi đặt lệnh mua chứng khoán, số dư tài khoản bằng tiền của khách hàng mở tại thành viên phải đáp ứng quy định ký quỹ tối thiểu là 70% giá trị chứng khoán đặt mua". Như vậy, theo quy định này, NĐT được giao dịch ký quỹ với tỷ lệ 70%.

Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành hiện chỉ đề cập một cách rất chung chung. Theo Điều 104.3, Luật Chứng khoán: "CTCK phải công bố thông tin các nội dung liên quan đến phương thức giao dịch, đặt lệnh, ký quỹ giao dịch, thời gian thanh toán, phí giao dịch, các dịch vụ cung cấp và danh sách những người hành nghề chứng khoán của công ty". Quyết định 27/2007/QĐ-BTC về tổ chức và hoạt động của CTCK buộc "CTCK chỉ được nhận lệnh của khách hàng có đủ tiền và chứng khoán theo quy định của UBCK và phải có các biện pháp cần thiết để đảm bảo khả năng thanh toán của khách hàng khi lệnh thanh toán được thực hiện". Vậy nhưng, Phụ lục 17 tại Quyết định 27/2007/QĐ-BTC về hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán quy định, một trong những nội dung của hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán ký giữa CTCK và khách hàng phải quy định tỷ lệ ký quỹ được áp dụng (cũng như thỏa thuận về lãi suất trên số dư tiền gửi giao dịch chứng khoán).

Quy chế giao dịch tại HASTC và HOSE quy định về giao dịch ký quỹ cũng khác nhau. Quy chế giao dịch tại HOSE quy định: "Khi đặt lệnh bán chứng khoán hoặc quảng cáo bán chứng khoán (khi đặt lệnh mua chứng khoán hoặc quảng cáo mua chứng khoán), số dư chứng khoán (số dư tiền) trên tài khoản của khách hàng mở tại thành viên phải đáp ứng điều kiện về tỷ lệ ký quỹ chứng khoán (tiền)". Ở đây, điều kiện về tỷ lệ ký quỹ là như thế nào, có thể ngầm hiểu đó là điều khoản giữa CTCK và NĐT? Còn Điều 9, Quy chế giao dịch tại HASTC quy định: "Khi đặt lệnh mua chứng khoán hoặc lệnh chào mua giao dịch thỏa thuận, NĐT thực hiện ký quỹ tiền giao dịch theo mức thỏa thuận với thành viên và thành viên có trách nhiệm đảm bảo khả năng thanh toán giao dịch đúng thời hạn quy định".

Về phía UBCK, quan điểm trong vấn đề này cũng không rõ ràng. Công văn số 557/UBCK-PTTT ngày 7/4/2008 yêu cầu: "CTCK phải tuân thủ quy định về kiểm tra ký quỹ giao dịch đối với khách hàng. Theo đó, khi đặt lệnh bán chứng khoán, khách hàng phải có đủ số lượng chứng khoán đặt bán trên tài khoản chứng khoán. Khi đặt lệnh mua chứng khoán, số dư tài khoản bằng tiền của khách hàng phải đáp ứng điều kiện về tỷ lệ ký quỹ giao dịch theo quy định từng thời kỳ". Như vậy, Công văn không nêu cụ thể tỷ lệ ký quỹ. Tại Công văn số 617/UBCK-GS ngày 14/4/2008, UBCK "nghiêm cấm… hành vi vi phạm quy định ký quỹ giao dịch". Và thêm một lần, UBCK không nói rõ tỷ lệ này là bao nhiêu hoặc được quy định ở văn bản nào.

Tựu trung, Quy chế thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch chứng khoán (ban hành kèm theo Quyết định 79/2000/QĐ-UBCK của UBCK và được sửa đổi theo Quyết định 50/2003/QĐ-BTC của Bộ Tài chính) được ban hành trước khi có Luật Chứng khoán rõ ràng là không còn hiệu lực. Tuy nhiên, cả Luật Chứng khoán lẫn Quy chế tổ chức và hoạt động của CTCK được ban hành theo Quyết định 27/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài chính lại không đề cập đến tỷ lệ ký quỹ khiến CTCK gặp lúng túng khi triển khai nghiệp vụ này.

Hiện chưa có quy định cụ thể về giao dịch ký quỹ cũng như việc CTCK có được cho NĐT vay tiền hay đứng làm trung gian thu xếp vốn cho NĐT hay không? Cũng vì chưa có quy định rõ ràng nên CTCK chỉ thực hiện giao dịch ký quỹ với NĐT là khách hàng VIP, khách hàng thân quen nên tạo ra sự bất bình đẳng giữa các NĐT. Bộ Tài chính, UBCK nên sớm có quy định cụ thể về vấn đề này.