Quy định về kiểm tra thuế và ấn định thuế: Đảm bảo nguyên tắc không hình sự hóa quan hệ thuế - doanh nghiệp

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Luật Quản lý thuế là luật ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí, thời gian tuân thủ và mức độ thuận tiện trong thực hiện nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp và người dân.

Tại Hội thảo lấy ý kiến doanh nghiệp về dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức vào chiều ngày 16/9, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký VCCI cho biết, Luật Quản lý thuế là một đạo luật mang tính nền tảng trong hệ thống pháp luật thuế của nước ta. Nếu các luật thuế chuyên ngành xác lập mức thuế, đối tượng chịu thuế thì Luật Quản lý thuế là “luật thủ tục”, điều chỉnh toàn bộ quy trình thực hiện nghĩa vụ thuế - từ đăng ký, kê khai, nộp thuế, đến hoàn thuế, miễn giảm, cưỡng chế, kiểm tra, khiếu nại…

“Đây là luật ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí, thời gian tuân thủ và mức độ thuận tiện trong thực hiện nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp và người dân”, ông Tuấn nhận định.

Sau hơn 4 năm thực thi, ông Tuấn cho rằng, Luật Quản lý thuế năm 2019 đã tạo ra những bước tiến quan trọng trong việc hiện đại hóa quản lý thuế, mở rộng cơ sở thu, nâng cao hiệu quả thu ngân sách. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế số phát triển nhanh, giao dịch xuyên biên giới gia tăng, các mô hình kinh doanh mới, tài sản số, trí tuệ nhân tạo, thương mại điện tử ngày càng phổ biến - những thách thức mới đang đặt ra yêu cầu cập nhật và hoàn thiện mạnh mẽ hơn nữa thể chế quản lý thuế.

Còn ông Đặng Ngọc Minh, Phó cục trưởng Cục Thuế (Bộ Tài chính) nhận định: “Luật Quản lý thuế 2019 là cơ sở pháp lý quan trọng, có phạm vi tác động trên cả nước đối với toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức, cá nhân”.

Chia sẻ về dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi), ông Tuấn đánh giá cao tinh thần cải cách sâu rộng, bám sát các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước được thể hiện trong Dự thảo Luật. Việc sửa đổi lần này không chỉ mang tính kỹ thuật mà là một cuộc “tái thiết kế thể chế quản lý thuế” với những định hướng rõ ràng. Cụ thể, chuyển đổi mô hình quản lý từ “quản lý” sang “phục vụ”, lấy người nộp thuế làm trung tâm. Hay thể chế hóa các nguyên tắc quản lý thuế hiện đại: dựa trên rủi ro, quản lý tuân thủ, bản chất kinh tế quyết định nghĩa vụ thuế, quản lý số hóa, ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn và AI.

“Tăng cường phân cấp, phân quyền, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí tuân thủ, thúc đẩy tuân thủ tự nguyện. Thiết lập nền tảng pháp lý cho quản lý thuế điện tử, thuế số, đáp ứng yêu cầu hội nhập và các chuẩn mực quốc tế”, ông Tuấn nói.

Từ góc nhìn cộng đồng doanh nghiệp, ông Tuấn đưa ra kiến nghị sơ bộ như sau:

Hoan nghênh việc quy định phân loại người nộp thuế theo rủi ro và mức độ tuân thủ (Điều 3, Điều 5, Điều 34), ông Tuấn nhận định, đây là bước đi cần thiết để hướng tới quản lý thông minh, tối ưu hóa nguồn lực công, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tuân thủ tốt. Tuy nhiên, cộng đồng doanh nghiệp mong Bộ Tài chính sớm công khai các tiêu chí phân loại, quy trình đánh giá rủi ro và mức độ tuân thủ, đảm bảo tính minh bạch, khách quan, tránh gây tâm lý e ngại cho doanh nghiệp.

Đối với việc xóa bỏ hình thức thuế khoán với hộ kinh doanh từ năm 2026 (Điều 13) là một yêu cầu quan trọng của Nghị quyết 68, ông Tuấn cho rằng là cần thiết để đảm bảo công bằng và chống thất thu. Tuy nhiên, cần có lộ trình hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp, đồng thời đơn giản hóa chế độ kế toán, khai thuế phù hợp với năng lực thực tế của họ. Tránh tình trạng "ép" chuyển đổi nhưng hộ kinh doanh không kịp thích nghi, dẫn tới tăng gánh nặng, thậm chí rút lui khỏi thị trường.

Xung quanh việc quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các tổ chức trung gian như sàn thương mại điện tử, tổ chức thanh toán, tổ chức bảo lãnh (Điều 40), ông Tuấn cho biết: “Là rất cần thiết trong quản lý thuế trong nền kinh tế số, nhưng cần đảm bảo rằng các quy định không tạo gánh nặng hành chính, chi phí tuân thủ quá lớn cho các doanh nghiệp trung gian, đặc biệt là doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp nhỏ”.

Các chuyên gia, doanh nghiệp, hiệp hội... tham gia đóng góp ý kiến tại Hội thảo

Các chuyên gia, doanh nghiệp, hiệp hội... tham gia đóng góp ý kiến tại Hội thảo

Đánh giá cao việc mở rộng ứng dụng công nghệ, dữ liệu lớn và chuyển đổi số trong quản lý thuế (Chương V) bởi việc xây dựng hệ sinh thái thuế điện tử, dịch vụ số, kết nối liên thông dữ liệu giữa các bộ ngành là xu thế tất yếu. Tuy nhiên, ông Tuấn đề nghị Bộ Tài chính xây dựng lộ trình triển khai có tính khả thi, đầu tư nguồn lực tương xứng, đảm bảo dữ liệu được bảo mật, an toàn và không bị lạm dụng.

Liên quan đến quy định về kiểm tra thuế và ấn định thuế (Điều 22, 24, 25), ông Tuấn đề nghị đảm bảo nguyên tắc không hình sự hóa quan hệ thuế - doanh nghiệp. Việc kiểm tra cần hạn chế tối đa trùng lặp, kết hợp phương pháp từ xa, kiểm tra điện tử; tránh gây gián đoạn sản xuất, kinh doanh và ảnh hưởng đến niềm tin của doanh nghiệp. Việc ấn định thuế cần dựa trên dữ liệu rõ ràng, quy trình chuẩn, minh bạch và có cơ chế giải trình hiệu quả.

Các doanh nghiệp đánh giá cao nỗ lực cắt giảm thủ tục, đơn giản hóa quy trình trong Dự thảo Luật. Tuy nhiên, bà Đoàn Lê Duy Uyên, Quản lý thuế của Công ty TNHH Grap Việt Nam cho biết, mỗi tháng Grap và khách hàng doanh nghiệp phát sinh khối lượng giao dịch rất lớn, vì thế cần đối soát số liệu hoạt động và cho phép thời điểm xuất hóa đơn theo kỳ để phù hợp với tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong thực tế. Điều này cũng hỗ trợ doanh nghiệp, cơ quan quản lý thuế cắt giảm thủ tục hành chính, truyền tải dữ liệu hóa đơn.

Đánh giá dự thảo Luật Quản lý thuế được xây dựng công phu, tâm huyết, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, ông Phan Vũ Hoàng, Phó tổng giám đốc Deloitte Việt Nam, đồng thời là Phó chủ tịch Hiệp hội Tư vấn thuế, kiến nghị, ngoài các lĩnh vực xuất hóa đơn theo kỳ như quy định hiện hành, việc xuất hóa đơn điện tử tại thời điểm phát sinh giao dịch cần xem xét một số trường hợp để đảm bảo tính hiệu quả.

Ông Tuấn đề nghị: “Tiếp tục rà soát, chuẩn hóa biểu mẫu, tăng cường dịch vụ công trực tuyến, đảm bảo các quy định mới khi ban hành phải áp dụng được ngay trong thực tế, đặc biệt đối với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ”.

Tin bài liên quan