Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 11-18/6: Nông sản và kim loại công nghiệp tăng 4 tuần liên tục

Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 11-18/6: Nông sản và kim loại công nghiệp tăng 4 tuần liên tục

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Kết thúc tuần giao dịch từ 11-18/6, thị trường hàng hóa chứng kiến đà tăng giá ở phần lớn các mặt hàng, trong đó nông sản và kim loại công nghiệp tăng 4 tuần liên tục.

Năng lượng: Giá dầu tăng hơn 2%

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu tăng trong tuần qua do nhu cầu của Trung Quốc tăng, trong khi Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các nước đồng minh, hay còn gọi là OPEC+, cắt giảm nguồn cung, cho dù kinh tế tế toàn cầu suy yếu và triển vọng diễn ra các đợt tăng lãi suất tiếp theo.

Cụ thể, kết thúc phiên 16/6, giá dầu Brent tăng 0,94 USD lên 76,61 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1,16 USD lên 71,78 USD/thùng. Tính chung cả tuần, dầu Brent tăng 2,4% và WTI tăng 2,3%.

Sản lượng lọc dầu của Trung Quốc trong tháng 5/2023 tăng lên gần mức cao kỷ lục. Giám đốc điều hành Tập đoàn Dầu mỏ Kuwait dự kiến nhu cầu của Trung Quốc tiếp tục tăng trong nửa cuối năm.

Cũng hỗ trợ giá dầu là việc OPEC+ hồi tháng 5 đã cắt giảm sản lượng và Ả Rập Xê-út tự nguyện cắt giảm thêm trong tháng 7 tới.

Bộ trưởng Năng lượng Nga Nikolai Shulginov cho biết, giá dầu ở mức khoảng 80 USD/thùng là “thực tế”. Ông Shulginov dự kiến sản lượng dầu khí ngưng tụ của Nga sẽ giảm khoảng 20 triệu tấn (400.000 thùng mỗi ngày) trong năm nay.

Tại Iran, xuất khẩu dầu thô và sản lượng dầu đã đạt mức cao mới vào năm 2023, bất chấp các lệnh trừng phạt của Mỹ, bổ sung vào nguồn cung toàn cầu khi các nhà sản xuất khác đang hạn chế sản lượng.

Công ty Dịch vụ năng lượng Baker Hughes Co cho biết, số giàn khoan dầu của Mỹ đã giảm 4 giàn trong tuần này xuống 552 giàn - mức thấp nhất kể từ tháng 4/2022, trong khi số giàn khoan khí đốt giảm 5 giàn xuống 130 giàn - mức thấp nhất kể từ tháng 3/2022.

Giới hạn mức tăng giá dầu là triển vọng tăng lãi suất, có thể làm chậm tăng trưởng kinh tế.

Ngân hàng Anh dự kiến sẽ tăng lãi suất thêm 0,25 điểm phần trăm vào tuần tới. Ngân hàng Trung ương châu Âu đã nâng lãi suất lên mức cao nhất trong 22 năm vào ngày 15/6/2023 và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã báo hiệu mức tăng ít nhất 0,5 điểm phần trăm vào cuối năm nay.

Kim loại: Giá vàng giảm nhẹ, đồng và quặng sắt tăng tuần thứ 3 liên tiếp

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng biến động mạnh vào thứ Sáu (16/6) khi các nhà đầu tư đưa ra quan điểm Fed sẽ tiếp tục thắt chặt lãi suất, làm giảm tác động tích cực từ việc USD giảm giá trong tuần qua.

Cụ thể, đóng cửa phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.958,83 USD/ounce, nhưng cả tuần vẫn giảm 0,1%. Giá vàng giao sau gần như không đổi ở mức 1.971,2 USD/ounce.

Giá bạc phiên 16/6 cũng tăng 1% lên 24,10 USD/ounce, trong khi bạch kim giảm 0,3% về 982,62 USD/ounce và cả 2 kim loại quý này đều giảm giá trong tuần qua. Giá palladium tăng 1,6% lên 1.422,03 USD, ghi nhận mức tăng hàng tuần lớn nhất kể từ tháng 11/2022.

Edward Moya, nhà phân tích thị trường cao cấp của OANDA, cho biết: “Thị trường vàng đang gặp khó khăn vì chứng khoán tiếp tục tăng và Fed ngày càng có những phát biểu tỏ ý sẽ tiếp tục thắt chặt tiền tệ”.

Theo công cụ FedWatch của CME, với sức hấp dẫn của vàng thỏi không lợi suất, các nhà giao dịch cho rằng, 74% khả năng lãi suất sẽ tăng vào tháng 7 tới.

Chỉ số đồng USD tăng trong phiên 16/6, nhưng cả tuần giảm mạnh nhất trong vòng 5 tháng qua, khiến vàng rẻ hơn đối với người mua ở nước ngoài.

Ở nhóm kim loại công nghiệp, giá đồng chạm mức cao nhất hơn 5 tuần trong phiên 16/6, nhưng đã lùi khỏi mức cao do tồn kho tại Sàn giao dịch kim loại London (LME) đang tăng cho thấy nguồn cung dần cải thiện.

Cụ thể, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn LME tăng 0,2% lên 8.576 USD/tấn sau khi chạm mức 8.634 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 10/5. Kim loại này đã giảm trở lại sau khi số liệu trên sàn LME cho thấy kho dự trữ được bổ sung 16.350 tấn đồng, đưa tổng dự trữ tăng 14%.

Giá đồng đã phục hồi gần 10% kể từ khi chạm mức thấp nhất gần 6 tháng qua vào ngày 24/5. Tính cả tuần, giá đồng tăng 2,4% - là tuần thứ 3 tăng liên tiếp.

Thị trường đồng toàn cầu dự kiến dư thừa 240.000 tấn trong năm nay, sau khi thiếu hụt 180.000 tấn trong năm 2022. Một yếu tố khác hỗ trợ giá đồng là thông tin nhà máy luyện đồng Ronnskar của Boliden tại Thụy Điển đã tuyên bố bất khả kháng sau một vụ hỏa hoạn.

Dự trữ đồng tại sàn Thượng Hải giảm 20,1% trong tuần qua và giảm 70% từ mức đỉnh hồi tháng 2/2023, nhưng tiêu thụ thực tế tại Trung Quốc vẫn yếu.

Về những kim loại cơ bản khác, giá thiếc kỳ hạn 3 tháng trên sàn London giảm 0,9% xuống 26.985 USD/tấn sau khi chạm mức cao nhất gần 2 tháng là 27.675 USD/tấn. Giá nhôm tăng 0,8 lên 2.267,50 USD/tấn; chì tăng 0,2% lên 2.134,50 USD/tấn; niken giảm 0,4% xuống 22.900 USD/tấn và kẽm giảm 0,5% xuống 2.469 USD/tấn.

Về nhóm kim loại đen, giá quặng sắt tăng tuần thứ 3 liên tiếp do dự đoán Trung Quốc - nước tiêu thụ thép hàng đầu thế giới, có thêm các gói kích thích để hỗ trợ nền kinh tế sau dịch.

Theo đó, kết thúc phiên 16/6, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên tăng 0,12% lên 815 CNY (114,48 USD)/tấn và cả tuần tăng 2,4%.

Tại Singapore, quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 0,2% lên 113,6 USD/tấn - cao nhất kể từ ngày 12/4/2023 và tăng 4,3% trong cả tuần.

Tại Thượng Hải, giá thép cây tăng 1,5%; thép cuộn cán nóng tăng 1,19%; thép dây tăng 0,9% và thép không gỉ tăng 0,39%.

Lượng quặng sắt tăng ở cả nhà máy và các cảng gây áp lực cho giá tại Đại Liên và Singapore lúc đầu phiên 16/6, sau đó được hỗ trợ bởi nhu cầu khá ổn định. Tồn kho quặng sắt tại 45 cảng được Công ty Mysteel khảo sát tăng khoảng 2% so với tuần trước nữa, đạt 128,5 triệu tấn trong tuần qua, trong khi sản lượng các nhà máy tăng 0,16% lên 84,84 triệu tấn sau khi giảm 6 tuần liên tiếp.

Các nhà máy thép vẫn cần bổ sung quặng sắt để duy trì sản xuất trong thời gian tới do tỷ suất lợi nhuận được cải thiện và tồn kho quặng sắt thấp tại các nhà máy, các nhà phân tích của Huatai Futures cho biết trong một lưu ý.

Khả năng sinh lời của 247 nhà máy thép được khảo sát đã tăng lên 51,95% từ 43,75% vào tuần trước, trong khi sản lượng kim loại nóng trung bình hàng ngày tăng 0,7% lên 2,43 triệu tấn, theo dữ liệu Mysteel.

Nông sản: Đậu tương và lúa mì tăng giá 4 tuần liên tục

Phiên cuối tuần qua (16/6), giá ngũ cốc Mỹ đồng loạt tăng. Trong đó, ngô và đậu tương đạt mức cao nhất trong vòng nhiều tháng trước kỳ nghỉ cuối tuần kéo dài 3 ngày ở Mỹ, bởi lo ngại về tình trạng khô hạn ảnh hưởng đến sản lượng tại khu vực Trung Tây nước này. Đáng chú ý, giá lúa mì phiên này tăng lên mức cao nhất 2 tháng qua.

Cụ thể, trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 17 US cent lên 6,40-1/4 USD/bushel, sau khi đạt mức 6,41-1/4 USD/bushel - cao nhất kể từ ngày 19/4; đậu tương cùng kỳ hạn tăng 38-1/4 US cent lên 14,66-1/2 USD/bushel, sau khi tăng lên 14,68-1/4 USD/bushel - mức cao nhất kể từ ngày 21/4. Tính chung cả tuần, hợp đồng này tăng 80 US cent (+5,77%) - tăng tuần thứ 4 liên tiếp.

Giá lúa mì đỏ mềm vụ Đông giao tháng 7/2023 đóng cửa tăng 26-1/2 US cent lên 6,88-1/2 USD/bushel, sau khi tăng lên 6,97 USD-1/2 USD/bushel - mức cao nhất kể từ ngày 19/4. Với mức tăng 9,16% trong tuần qua, lúa mì đã có 4 tuần tăng giá liên tiếp.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường tăng, đi ngược với cà phê; giá cao su diễn biến trái chiều

Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 đóng cửa phiên thứ Sáu 16/6 tăng 0,43 US cent (+1,7%) lên 26,43 US cent/lb và cả tuần tăng 4,1%. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 tăng 17,5 USD (+2,6%) lên 702,5 USD/tấn và cả tuần tăng 3,1%.

Nhà môi giới Czarnikow cho biết: “Sau khi đạt được hiệu suất mạnh mẽ vào ngày thứ Năm cùng với thời điểm hết hạn quyền chọn vào tháng 7/2023, thị trường đường tiếp tục xu hướng tích cực".

Giá cà phê Robusta đạt mức cao kỷ lục vào thứ Sáu trong bối cảnh lo ngại ngày càng tăng về nguồn cung hạn chế ở Đông Nam Á và nhu cầu gia tăng ở Brazil. Theo đó, cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2023 kết thúc phiên này giảm 10 USD (-0,4%) xuống 2.747 USD/tấn, trước đó có lúc tăng lên mức kỷ lục 2.797 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá robusta tăng 2%. Cà phê arabica cùng kỳ hạn cũng giảm 2,2 US cent (-1,2%) xuống 1,8075 USD/lb.

Các đại lý cho biết, giá cà phê trên thị trường nội địa Brazil - nhà xuất khẩu robusta lớn thứ 3 thế giới, tiếp tục tăng do nhu cầu trong nước tiếp tục mở rộng, trong khi nông dân vẫn chưa muốn bán. Trong khi đó, tại các nước xuất khẩu hàng đầu là Việt Nam và Indonesia, nguồn cung hết sức khan hiếm và không thể loại trừ khả năng tiếp tục giảm do hiện tượng El Nino.

Giá cao su trên thị trường châu Á tăng trong phiên 16/6 do kỳ vọng Trung Quốc gia tăng kích thích kinh tế. Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 11/2023 trên Sàn giao dịch Osaka tăng 0,6 JPY (+0,3%) lên 211,3 JPY (1,5 USD)/kg. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá cao su vẫn giảm 0,3%.

Trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2023 tăng 60 CNY lên 12.130 CNY (1.705,33 USD)/tấn. Trên nền tảng SICOM của Sở giao dịch Singapore, hợp đồng cao su kỳ hạn giao tháng 7/2023 tăng 0,4% lên 134,4 US cent/kg.

Trung Quốc sẽ tung thêm nhiều gói kích thích để hỗ trợ nền kinh tế đang chậm lại trong năm nay, song những lo ngại về nợ và thoái vốn sẽ khiến các biện pháp nhằm hỗ trợ nhu cầu yếu lĩnh vực tiêu dùng và tư nhân tiếp tục được duy trì.

Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản duy trì chính sách tiền tệ cực kỳ nới lỏng trong ngày 16/6, bất chấp lạm phát cao hơn dự kiến, báo hiệu rằng họ sẽ vẫn là một ngoại lệ ôn hòa trong số các ngân hàng trung ương toàn cầu và tập trung vào việc hỗ trợ sự phục hồi kinh tế mong manh.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

Tin bài liên quan