Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 2-9/4: Giá dầu tăng tuần thứ 3 liên tục, kim loại, nông sản, nguyên liệu công nghiệp… chịu sức ép lớn

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 2-9/4, ngoại trừ dầu thô ghi nhận tuần tăng giá thứ 3 liên tiếp, các nhóm hàng hóa khác như kim loại, nông sản, nguyên liệu công nghiệp… đều chịu sức ép bán ra khiến nhiều mặt hàng giảm giá.
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 2-9/4: Giá dầu tăng tuần thứ 3 liên tục, kim loại, nông sản, nguyên liệu công nghiệp… chịu sức ép lớn

Năng lượng: Dầu tăng giá tuần thứ 3 liên tiếp, khí đốt tiếp tục giảm hơn 9%

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu tăng nhẹ trong phiên cuối tuần qua và ghi nhận tuần tăng thứ 3 liên tiếp, do thị trường cân nhắc giữa mục tiêu cắt giảm sản lượng của Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh bao gồm Nga (OPEC+) và tồn trữ dầu của Mỹ giảm, trước mối lo ngại về triển vọng kinh tế toàn cầu.

Chốt phiên 6/4, dầu thô Brent tăng 13 US cent (+0,2%) lên 85,12 USD/thùng và dầu thô Tây Texas (WTI) tăng 9 US cent (+0,1%) lên 80,7 USD/thùng. Cả 2 loại dầu đều có tuần tăng hơn 6%, sau khi OPEC+ cam kết cắt giảm mạnh sản lượng.

Giá dầu được hỗ trợ bởi tồn trữ dầu thô của Mỹ trong tuần qua giảm mạnh hơn dự kiến và có tuần giảm thứ 2 liên tiếp. Tồn trữ xăng và sản phẩm chưng cất cũng giảm, điều này cho thấy nhu cầu tăng. Tuy nhiên, mức tăng giá dầu bị hạn chế bởi số liệu thị trường lao động của Mỹ thể hiện tăng trưởng kinh tế chậm lại và tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ của nước này chậm hơn so với dự kiến.

Trên thị trường khí đốt, giá khí tự nhiên tại Mỹ tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất 1 tuần trong tuần qua do sản lượng tăng, dự báo thời tiết ôn hòa hơn và nhu cầu sưởi ấm giảm.

Cụ thể, giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn New York giảm 14,4 US cent (-6,7%) xuống 2,011 USD/mmBTU và tính cả tuần giảm hơn 9%.

Kim loại: Chịu áp lực bán mạnh, dù vẫn giữ giá

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giảm trước báo cáo việc làm quan trọng của Mỹ, song vẫn có tuần tăng do số liệu kinh tế của Mỹ suy yếu, làm dấy lên mối lo ngại về suy thoái.

Cụ thể, vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm 0,6% xuống 2.009,07 USD/ounce và vàng kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn New York giảm 0,5% xuống 2.026,4 USD/ounce.

Tính chung cả tuần, giá vàng tăng hơn 2% và vượt ngưỡng 2.000 USD/ounce do giá dầu tăng sau khi OPEC+ cắt giảm thêm sản lượng, trong khi số liệu cho thấy lĩnh vực dịch vụ của Mỹ chậm lại và ít cơ hội việc làm hơn.

Giá vàng trong tuần qua được hỗ trợ bởi USD giảm xuống mức thấp nhất 2 tháng, trong khi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm chạm mức thấp nhất 7 tháng.

Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,6% xuống 24,82 USD/ounce; palladium giảm 0,1% xuống 1.427 USD/ounce; ngược lại, bạch kim tăng 0,8% lên 1.005 USD/ounce.

Ở nhóm kim loại công nghiệp, giá đồng kỳ hạn giao 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London tăng 0,9% lên 8.861,50 USD/tấn. Tuy nhiên, giá đồng đã giảm 1,5% trong tuần qua, từ mức 8.993 USD/tấn.

Giá đồng - thường được xem là một trong những chỉ dấu kinh tế, đã chạm mức thấp nhất trong hơn 2 tuần vào thứ Tư (4/4) sau khi dữ liệu kinh tế yếu kém của Mỹ làm dấy lên lo ngại về suy thoái kinh tế.

Về các kim loại khác, giá kẽm tăng 0,5% lên 2.804 USD/tấn; nhôm tăng 0,3% lên 2.340 USD/tấn; thiếc tăng 0,9% lên 24.308 USD/tấn, giá chì tăng 0,4% lên 2.119 USD/tấn và giá nikel tăng 1,6% lên 23.075 USD/tấn.

Trong khi đó, hàng tồn kho khan hiếm và nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu Trung Quốc được cải thiện đã hỗ trợ phần nào cho thị trường. Theo đó, hợp đồng đồng giao tháng 5/2023 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 0,2% lên 68.740 CNY(tương đương 9.995,35 USD)/tấn, nhưng cũng giảm 1% trong tuần.

Chỉ số USD giảm xuống do các nhà đầu tư cân nhắc xem dữ liệu việc làm quan trọng của Mỹ được công bố vào kỳ nghỉ giao dịch chứng khoán có thể tác động đến chính sách của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và gây ra phản ứng thị trường biến động như thế nào.

Về các kim loại khác, giá nhôm tăng 0,6% lên 18.705 CNY/tấn; kẽm ít thay đổi ở mức 22.105 CNY/tấn; nikel tăng 2,2% lên 177.310 CNY/tấn; chì tăng 0,6% lên 15.315 CNY/tấn; thiếc giảm 1% xuống 195.670 CNY/tấn.

Trong phiên 7/4, giá quặng sắt tại Đại Liên gặp khó khăn trong việc xác định phương hướng sau 3 ngày giảm giá, do dự trữ tại cảng giảm và sản lượng kim loại nóng tăng, trong khi các cuộc thảo luận về cuộc họp của nhà hoạch định nhà nước về chính sách cắt giảm thép thô trong năm nay gây áp lực trên thị trường.

Cụ thể, giá quặng sắt giao tháng 9/2023 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên tăng hơn 0,19% lên mức 796 CNY(tương đương 115,72 USD)/tấn, sau khi giảm 4,4% trong ba phiên giao dịch trước đó của tuần qua. Tính cả tuần, hợp đồng này giảm 1%, có thời điểm xuống mức thấp nhất trong 2 tuần là 793 CNY (tương đương 115,35 USD)/tấn.

Tương tự, trên Sàn giao dịch Singapore, giá quặng sắt giao trong tháng 5/2023 giảm 0,47 % xuống mức thấp nhất 2 tuần là 117,3 USD/tấn. Như vậy, trong hai tuần qua, giá quặng sắt giảm tổng cộng 6,4%.

Nhu cầu thép yếu cũng che mờ giá tương lai của các nguyên liệu thô sản xuất thép khác , bao gồm than luyện cốc và than cốc.

Dữ liệu từ Công ty Tư vấn Mysteel cho thấy, tồn kho quặng sắt tại cảng lớn trên khắp Trung Quốc đã giảm 7,5% xuống 131,53 triệu tấn trong tuần tính đến ngày 6/4, đánh dấu tuần giảm thứ 6 liên tiếp.

Theo dữ liệu từ Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc (CISA), sản lượng kim loại hàng ngày dự kiến sẽ tăng 1,54% lên 2,45 triệu tấn trong giai đoạn từ 21-31/3 so với 10 ngày trước đó.

Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia (NDRC) đã tổ chức một cuộc họp thảo luận chi tiết về chính sách cắt giảm thép thô trong năm nay.

Bên cạnh đó, giá các nguyên liệu sản xuất thép khác, bao gồm than luyện cốc và than cốc có diễn biến trái chiều, với giá than cốc tăng 1,14%, trong khi than luyện cốc giảm 0,18%.

Theo các nhà phân tích, giá thép kỳ hạn ghi nhận một số mức tăng, một phần được thúc đẩy bởi hy vọng nhà hoạch định nhà nước sẽ hoàn thiện chính sách giảm sản lượng thép.

Trên sàn giao dịch Thượng Hải, giá thép cây tăng 1,11% lên 3.994 CNY/tấn; thép cuộn tăng 1,14%; dây thép cuộn tăng 0,44% và thép không gỉ tăng 1,14%.

Sản lượng các sản phẩm thép xây dựng, bao gồm thép cây và thép cuộn trong tuần tính đến ngày 6/4 giảm 1% so với tuần trước nữa, xuống 4,23 triệu tấn, trong khi nhu cầu đối với cả 2 loại thép này giảm 6,7% so với tuần trước nữa xuống 4,36 triệu tấn, theo dữ liệu của Mysteel.

Nông sản: Đậu tương, ngô và lúa mì cùng giảm giá, gạo giữ giá

Giá ngũ cốc và đậu tương trên sàn Chicago giảm, do thất vọng về doanh số xuất khẩu của Mỹ và triển vọng thời tiết đối với cây trồng mùa xuân được cải thiện.

Cụ thể, giá đậu tương kỳ hạn tháng 5/2023 giảm 18-1/2 US cent xuống 14,92-1/2 USD/bushel và chạm mức thấp nhất kể từ ngày 31/3/2023.

Giá ngô kỳ hạn tương tự giảm 9-1/4 US cent xuống 6,43-1/2 USD/bushel và chạm mức thấp nhất kể từ ngày 27/3/2023.

Giá lúa mì giao cùng kỳ hạn giảm 6-1/2 US cent xuống 6,75-1/2 USD/bushel, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 24/3/2023.

Giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ tăng, do nhu cầu cải thiện và đồng rupee tăng giá, trong khi giá gạo của Việt Nam dự kiến sẽ vẫn ở mức cao do những lo ngại về kinh tế và chính trị.

Cụ thể, tại Ấn Độ - nước xuất khẩu gạo hàng đầu, giá gạo 5% tấm ở mức 383-389 USD/tấn, tăng so với 380-385 USD/tấn cách đây 1 tuần.

Tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm ở mức 480-482 USD/tấn, không thay đổi so với 475-482 USD/tấn cách đây 1 tuần.

Tại Việt Nam, gạo 5% tấm cũng không thay đổi so với 1 tuần trước đó, ở mức 460 USD/tấn.

Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong năm nay ước đạt 6,5-6,7 triệu tấn, giảm so với 7,1 triệu tấn năm trước đó.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường bật tăng, cao su và dầu cọ giảm, cà phê biến động trái chiều

Giá đường thô trên sàn ICE tăng lên mức cao nhất 6,5 năm, do sản lượng tại Ấn Độ giảm dẫn đến nguồn cung thắt chặt. Cụ thể, giá đường thô kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn ICE tăng 0,66 US cent (+2,9%) lên 23,61 US cent/lb, sau khi đạt 23,68 US cent/lb – cao nhất kể từ tháng 10/2016. Giá đường trắng cùng kỳ hạn trên sàn London cũng tăng 9,3 USD (+1,4%) lên 673,2 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 11 năm (676,5 USD/tấn).

Giá cà phê tại Việt Nam tăng theo xu hướng giá cà phê tại London do tồn trữ giảm, cùng với đó là mức cộng cà phê tại Indonesia giảm sau khi hoạt động giao dịch tăng. Cụ thể, cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2,5% đen và vỡ) chào bán ở mức cộng 40-50 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn London, tăng so với mức cộng 20-30 USD/tấn 1 tuần trước đó. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 48.800-51.000 đồng (2,08-2,2 USD)/kg, tăng so với 47.700-48.800 đồng/kg 1 tuần trước đó.

Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 80 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn London, giảm so với mức cộng 160 USD/tấn cách đây 1 tuần.

Tại New York, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5/2023 tăng 3,45 US cent (+1,9%) lên 1,836 USD/lb, sau khi đạt mức cao nhất 2 tuần trong đầu phiên.

Tại London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 5/2023 giảm 15 USD (-0,6%) xuống 2.299 USD/tấn, giảm trở lại từ mức cao nhất 7 tháng (2.320 USD/tấn) trong phiên trước đó.

Giá cao su tại Nhật Bản giảm do lo ngại suy thoái kinh tế toàn cầu và giá dầu thô giảm. Cụ thể, cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Osaka (OSE) giảm 4,5 JPY (-2,1%) xuống 209,8 JPY (1,6 USD)/kg.

Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 145 CNY xuống 11.660 CNY (1.694,94 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 4/2023 trên sàn Singapore giảm 0,7% xuống 134,8 US cent/kg.

Giá dầu cọ tại Malaysia giảm phiên thứ 2 liên tiếp, sau khi nhóm công nghiệp dự báo sản lượng dầu trong tháng 3/2023 tăng. Cụ thể, dầu cọ kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn Bursa Malaysia giảm 44 ringgit (-1,14%) xuống 3.824 ringgit (869,68 USD)/tấn, sau khi tăng 1,2% trong đầu phiên giao dịch.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

Tin bài liên quan