Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 7-14/6: Giá vàng và dầu vọt tăng, cà phê giảm tuần thứ 7 liên tiếp

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 7-14/6, trong khi giá dầu và vàng tăng vọt sau các diễn biến căng thẳng tại khu vực Trung Đông, thì nhiều mặt hàng khác lại giảm mạnh như cà phê xuống mức thấp nhất 10 tháng với việc giảm giá tuần thứ 7 liên tiếp, đường cũng giảm giá trong 5 tuần liên tục…
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 7-14/6: Giá vàng và dầu vọt tăng, cà phê giảm tuần thứ 7 liên tiếp

Năng lượng: Dầu vọt tăng gần 13%, khí LNG xuống mức thấp nhất 1 tuần

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thế giới tăng mạnh vào thứ Sáu (13/6) do lo ngại gián đoạn nguồn cung từ hoạt động xuất khẩu dầu Trung Đông.

Cụ thể, dầu thô Brent chốt phiên ở mức 74,23 USD/thùng, tăng 4,87 USD (+7,02%), sau khi tăng vọt hơn 13% lên cao nhất ngày là 78,5 USD/thùng - mức mạnh nhất kể từ 27/1/2025 và cả tuần tăng hơn 12,5%.

Dầu thô của Mỹ (WTI) chốt phiên ở mức 72,98 USD/thùng, tăng 4,94 USD (+ 7,62%), trong phiên có thời điểm tăng hơn 14% lên mức cao nhất kể từ ngày 21/1/2025 là 77,62 USD/thùng và tăng 13% trong tuần.

Cả hai loại dầu đều có biến động trong ngày lớn nhất kể từ năm 2022.

Iran - một thành viên của Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), hiện đang sản xuất khoảng 3,3 triệu thùng mỗi ngày (bpd) và xuất khẩu hơn 2 triệu thùng dầu và nhiên liệu mỗi ngày.

Các nhà quản lý tiền tệ đã tăng vị thế mua ròng hợp đồng tương lai và quyền chọn dầu thô của Mỹ trong tuần tính đến ngày 10/6, Ủy ban Giao dịch hàng hóa tương lai Mỹ (CFTC) cho biết vào thứ Sáu.

Baker Hughes cho biết, số lượng giàn khoan dầu và khí đốt tự nhiên của Mỹ đã giảm trong tuần thứ bảy liên tiếp với tổng số lượng giảm 35 giàn khoan (-6%) so với cùng kỳ năm ngoái. Số lượng giàn khoan dầu đã giảm 3 giàn xuống còn 439 giàn trong tuần qua, mức thấp nhất kể từ tháng 10/2021, trong khi số lượng giàn khoan khí đốt giảm 1 giàn xuống còn 113 giàn.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ giảm xuống mức thấp nhất 1 tuần do dự báo nhu cầu thấp hơn, sản lượng hàng ngày tăng nhẹ và lượng khí đốt dự trữ đạt mức đạt kỷ lục vào tuần trước nữa.

Cụ thể, giá LNG tương lai trên Sàn giao dịch hàng hóa New York giảm 1,5 cent (-0,4%) xuống 3,492 USD/mmBTU - mức đóng cửa thấp nhất kể từ 30/5/2025 trong ngày thứ tư liên tiếp.

Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, các công ty năng lượng đã bổ sung 109 tỷ feet khối (bcf) khí đốt vào kho lưu trữ trong tuần kết thúc vào ngày 6/6.

Công ty Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã giảm xuống còn 105,1 tỷ feet khối mỗi ngày cho đến nay trong tháng 6, giảm so với mức 105,2 bcfd vào tháng 5 và mức cao kỷ lục hàng tháng là 106,3 bcfd vào tháng 3.

LSEG dự báo, nhu cầu khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ tăng từ 98,1 bcfd trong tuần này lên 99,9 bcfd vào tuần tới. Dự báo cho tuần này thấp hơn kỳ vọng của LSEG vào thứ Tư.

Lượng khí đốt trung bình vào 8 nhà máy xuất khẩu LNG lớn của Mỹ đã giảm xuống còn 14 bcfd cho đến nay trong tháng 6, giảm so với mức 15 bcfd vào tháng 5 và mức cao kỷ lục hàng tháng là 16 bcfd vào tháng 4.

Kim loại: Giá vàng bật mạnh, đồng và quặng sắt, thép đều giảm

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tăng mạnh khi nhà đầu tư đổ xô vào tài sản an toàn sau khi Israel không kích Iran, làm dấy lên lo ngại xung đột lan rộng ở Trung Đông.

Cụ thể, vàng giao ngay tăng 1,3% lên 3.428,10 USD/ounce, tiến sát mức kỷ lục 3.500,05 USD/ounce thiết lập hồi tháng 4 và đã tăng khoảng 4% trong tuần. Hợp đồng vàng tương lai Mỹ cũng tăng 1,5% lên 3.452,8 USD/ounce.

Giới phân tích cho rằng, căng thẳng địa chính trị và kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ cắt giảm lãi suất sau loạt dữ liệu lạm phát yếu đã hỗ trợ giá vàng.

Goldman Sachs dự báo, giá vàng có thể đạt 3.700 USD/ounce vào cuối năm 2025 và 4.000 USD/ounce vào giữa năm 2026. Trong khi đó, nhu cầu vàng vật chất tại châu Á suy yếu do giá tăng quá cao, đặc biệt tại Ấn Độ.

Các kim loại quý khác biến động trái chiều: Bạc tăng 0,9% trong tuần dù giảm nhẹ trong phiên; bạch kim tăng 4,8% trong tuần dù giảm mạnh 5,9% trong phiên; trong khi palađi giảm 1,3%.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng giảm do USD mạnh lên và tâm lý né tránh rủi ro sau khi Israel mở cuộc tấn công quy mô lớn vào Iran.

Cụ thể, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London (LME) giảm 0,5% về 9.653 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ 3/6/2025 là 9.532 USD/tấn. Đồng Comex của Mỹ cũng giảm 0,3% xuống 4,82 USD/pound.

Giới phân tích cho biết, các quỹ đầu tư theo thuật toán đã bán mạnh, trong khi một số nhà đầu tư Trung Quốc tranh thủ mua vào ở mức thấp. Giá nhôm giao dịch tại Trung Quốc tăng 0,4% lên 20.425 nhân dân tệ/tấn, nhờ nhu cầu nội địa cao và tồn kho tại Sở Giao dịch Thượng Hải giảm xuống còn 110.001 tấn – thấp nhất kể từ tháng 2 và giảm 54% kể từ cuối tháng 3.

Nhiều kim loại công nghiệp khác trên sàn LME cũng giảm giá trong tuần qua như nhôm giảm 0,5%; chì giảm 0,3%; kẽm giảm 0,6%; trong khi niken và thiếc cùng tăng nhẹ 0,3%.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt giảm phiên thứ hai liên tiếp vào thứ Sáu (13/6) và ghi nhận mức giảm trong tuần, sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố áp thuế 50% lên nhiều sản phẩm liên quan đến thép từ ngày 23/6/2025.

Cụ thể, hợp đồng quặng sắt tháng 9/2025 trên sàn Đại Liên (Trung Quốc) giảm 0,14% xuống 703 CNY/tấn (97,90 USD) và giảm 0,7% trong tuần. Hợp đồng quặng sắt tháng 7/2025 trên sàn Singapore cũng giảm 0,15% về 94,4 USD/tấn - thấp nhất kể từ ngày 10/4/2025 và giảm 1,2% trong tuần.

Theo giới quan sát, động thái trên chủ yếu mang tính tâm lý và chưa ảnh hưởng nhiều đến thị trường thép Trung Quốc trong ngắn hạn, cho nên nhu cầu quặng sắt vẫn duy trì ổn định với sản lượng gang nóng trung bình đạt khoảng 2,42 triệu tấn/ngày trong tuần kết thúc vào ngày 13/6. Dự báo xuất khẩu thép Trung Quốc năm nay tăng 1,2% lên 112 triệu tấn, trong khi tiêu thụ nội địa giảm 1%.

Trên thị trường nguyên liệu khác, giá than luyện cốc và than cốc tăng nhẹ, trong khi giá hầu hết mặt hàng thép trên sàn Thượng Hải (SHFE) giảm nhẹ, riêng thép cuộn trơn tăng 0,27%.

Nông sản: Giá đầu tương và ngô cùng tăng, đi ngược với lúa mì

Trên Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT), giá lúa mì quay đầu tăng trong phiên cuối tuần 13/6 sau chuỗi giảm trước đó. Động lực chính đến từ hoạt động mua bù lỗ kỹ thuật và đà tăng giá dầu thô.

Cụ thể, hợp đồng lúa mì đỏ mềm vụ Đông giao tháng 7 (WN25) tăng 17,25 cent lên 5,4375 USD/giạ, sau khi chạm đáy ngắn hạn trong phiên. Tuy nhiên, tính cả tuần, hợp đồng này vẫn giảm 2% do áp lực thu hoạch mùa vụ tại Bắc bán cầu. Hợp đồng lúa mì đỏ cứng Kansas (KWN25)lúa mì Xuân Minneapolis (MWEN25) cùng ghi nhận mức tăng lần lượt là 18 cent/giạ và 13,25 cent/giạ.

Trên thị trường châu Âu, giá lúa mì Euronext tăng sau khi Israel không kích Iran, thúc đẩy lực mua đầu cơ trở lại. Tại Pháp, chất lượng lúa mì cải thiện nhẹ, với 70% vụ mùa được đánh giá tốt đến xuất sắc.

Ngô CBOT kết phiên trong sắc xanh khi được hỗ trợ bởi giá dầu và sản phẩm liên quan đến đậu nành. Cụ thể, hợp đồng ngô tháng 7 (CN25) tăng 6 cent lên 4,4405 USD/giạ; hợp đồng ngô tháng 12 (CZ25) nhích 2,5 cent lên 4,43 USD/giạ.

Giới đầu tư phản ứng tích cực với đề xuất của EPA Mỹ về tăng hạn ngạch pha trộn nhiên liệu sinh học trong 2 năm tới - động lực nâng kỳ vọng tiêu thụ dầu đậu nành, qua đó gián tiếp hỗ trợ giá ngô.

Tuy vậy, thời tiết thuận lợi tại vành đai ngô Mỹ khiến giá không thể tăng mạnh. Thị trường đang chờ dữ liệu mùa vụ từ USDA công bố vào tuần tới. Lưu ý, ngày 19/6, thị trường Mỹ nghỉ giao dịch nhân dịp Juneteenth.

Giá đậu tương CBOT bật tăng mạnh nhờ triển vọng nhu cầu dầu đậu cải thiện từ chính sách sinh học Mỹ. Cụ thể, hợp đồng đậu tương tháng 7 (SN25) tăng 27,5 cent lên 10,6975 USD/giạ; hợp đồng đậu tương tháng 11 (SX25) cũng ghi nhận mức tăng tương tự.

Hợp đồng dầu đậu nành tháng 7 (BON25) tăng kịch trần 3 cent lên 50,61 cent/pound. CBOT cho biết, sẽ điều chỉnh biên độ dao động giá đối với các hợp đồng đậu từ phiên giao dịch tiếp theo. Ngược lại, bã đậu nành tháng 7 (SMN25) giảm 2,6 USD xuống 291,9 USD/tấn ngắn, do chênh lệch giá giữa dầu và bã khiến nhu cầu tiêu thụ bị ảnh hưởng.

EPA Mỹ đề xuất nâng tổng hạn ngạch nhiên liệu sinh học lên hơn 24 tỷ gallon cho các năm 2026 và 2027, cao hơn so với năm 2025, đồng thời giảm phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu. Điều này mở ra kỳ vọng tiêu thụ nội địa dầu đậu sẽ tăng mạnh trong ngành sản xuất diesel tái tạo.

Nguyên liệu công nghiệp: Đường giảm tuần thứ 5 liên tiếp, cà phê giảm liền 7 tuần, ca cao cũng mất giá mạnh, cao su thẳng tiến

Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần qua (13/6), giá đường thô tiếp tục đi xuống trong bối cảnh dư cung toàn cầu chưa có dấu hiệu cải thiện.

Cụ thể, hợp đồng đường thô kỳ hạn tháng gần (SB1!) giảm 0,14 cent (-0,9%) xuống 16,13 cent/pound - mức thấp nhất kể từ tháng 4/2021 và cả tuần giảm 2,2% - đánh dấu tuần giảm thứ 5 liên tiếp. Trong khi đó, hợp đồng đường trắng (SF1!) gần như đi ngang quanh mức 465,3 USD/tấn.

Mặc dù đầu phiên giá đường có lúc tăng nhờ tác động từ căng thẳng địa chính trị giữa Israel và Iran, nhưng xu hướng này nhanh chóng đảo chiều bởi yếu tố cung - cầu cơ bản.

Lượng mưa dồi dào ở các quốc gia sản xuất lớn như Ấn Độ, Thái Lan và Trung Quốc đang hỗ trợ cây mía phát triển tốt. Riêng tại Thái Lan, diện tích trồng mía niên vụ 2025-2026 tăng hơn 8% so với vụ trước, nâng triển vọng nguồn cung. Tuy nhiên, thị trường châu Âu lại chứng kiến kỳ vọng năng suất củ cải đường suy giảm do mùa Xuân khô hạn, kèm theo diện tích trồng giảm, dự báo tổng sản lượng sẽ thấp hơn các năm trước.

Hợp đồng cà phê Robusta kỳ hạn tháng gần (RC2!) giảm 27 USD/tấn (-0,6%) về 4.287 USD/tấn. Trước đó, giá đã có lúc giảm xuống mức 4.133 USD/tấn - là mức thấp nhất kể từ tháng 8 năm ngoái. Đây cũng là tuần giảm thứ 7 liên tiếp của mặt hàng này. Trong khi đó, cà phê Arabica (KC2!) nhích nhẹ 0,2% lên 3,46 USD/pound.

Giới giao dịch nhận định, thị trường đang chịu áp lực từ việc Brazil - nước xuất khẩu Robusta lớn thứ hai thế giới, có điều kiện thời tiết ôn hòa, giúp mùa vụ diễn ra suôn sẻ. Ngoài ra, lượng tồn kho cà phê trên sàn ICE có dấu hiệu phục hồi, khiến áp lực cung ứng giảm nhiệt.

Tại Việt Nam, quốc gia dẫn đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu cà phê Robusta, thời tiết đang thuận lợi với lượng mưa đến đúng thời điểm, giúp giảm chi phí tưới tiêu và gia tăng hiệu quả sản xuất. Báo cáo từ Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ dự báo sản lượng Robusta Việt Nam niên vụ 2025-2026 sẽ tăng khoảng 7% so với vụ trước, lên 30 triệu bao - mức cao nhất trong 4 năm trở lại đây.

Giá ca cao tiếp tục điều chỉnh sau thời gian tăng nóng. Trên sàn ICE, hợp đồng ca cao kỳ hạn C2! giảm mạnh 139 bảng (-2,2%) xuống 6.228 bảng/tấn. Cùng lúc, ca cao New York (CC2!) giảm 3,1% xuống 8.952 USD/tấn.

Theo chuyên gia Jack Scoville từ The Price Futures Group (Chicago), ngoài khu vực Tây Phi - vùng trồng ca cao truyền thống hiện ghi nhận sự gia tăng nguồn cung từ các khu vực khác như Nigeria, châu Á và Trung Mỹ. Điều này đang dần tạo áp lực lên giá ca cao toàn cầu, vốn đã lập kỷ lục cao trong các tháng trước do khủng hoảng nguồn cung tại Bờ Biển Ngà và Ghana.

Giá cao su tại Nhật Bản và Trung Quốc đồng loạt tăng khi căng thẳng Israel -Iran đẩy giá dầu thô vọt hơn 7%. Giá dầu tăng mạnh khiến giá cao su tự nhiên đi lên do cạnh tranh với cao su tổng hợp - sản phẩm từ dầu mỏ.

Cụ thể, hợp đồng cao su giao tháng 11/2025 trên sàn Osaka tăng 1% lên 293,7 yên/kg; cao su giao tháng 9/2025 trên sàn Thượng Hải tăng 0,6% lên 13.860 nhân dân tệ/tấn; cao su giao tháng 7/2025 trên sàn Singapore tăng 1,9% lên 163 cent Mỹ/kg. Cao su butadien cũng tăng 0,7%.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).
Tin bài liên quan