Ảnh Internet

Ảnh Internet

Thị trường hàng hóa tuần từ 18-25/6: Giá dầu, vàng và nhiều mặt hàng khác tăng, nông sản giảm

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Thị trường hàng hóa thế giới tuần qua (11-18/6) giao dịch sôi động, giá các mặt hàng từ dầu, vàng tới kim loại công nghiệp, đường, cà phê… đều tăng, trong khi giá ngũ cốc đi ngược thị trường.

Năng lượng: Giá dầu tăng cao nhất gần 3 năm, than cốc cũng bật mạnh

Kết thúc phiên cuối tuần qua 25/6, giá dầu Brent tăng 62 US cent (+0,8%) lên 76,18 USD/thùng, dầu Tây Texas Mỹ (WTI) cũng tăng 75 US cent (+1%) lên 74,05 USD/thùng. Tính chung cả tuần, cả 2 loại dầu tăng tổng cộng hơn 3%.

Như vậy, giá dầu đã tăng tuần thứ 5 liên tiếp, lên mức cao nhất kể từ tháng 10/2018 do kỳ vọng mức tăng nhu cầu sẽ vượt nguồn cung và Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) cùng các nhà sản xuất lớn ngoài khối (còn gọi là nhóm OPEC+) dự báo tiếp tục thận trọng việc cung cấp thêm dầu thô cho thị trường kể từ tháng 8/2021.

Các nguồn tin của OPEC+ cho hay, nhóm này đang thảo luận tăng dần sản lượng dầu từ tháng 8/2021, nhưng vẫn chưa quyết định số lượng chính xác. OPEC+ đang đưa 2,1 triệu thùng dầu trở lại thị trường mỗi ngày từ tháng 5/2021 đến tháng 7/2021, đây là một phần trong kế hoạch rút dần thỏa thuận cắt giảm sản lượng của năm 2020 do đại dịch Covid-19 tác động đến sự phục hồi nhu cầu.

Ngoài ra, viễn cảnh các lệnh trừng phạt đối với Iran được dỡ bỏ và nước này sẽ sớm bổ sung dầu mỏ ra thị trường đã mờ nhạt dần. Một quan chức Mỹ cho biết, vẫn còn những bất đồng nghiêm trọng trong một loạt vấn đề về việc Tehran tuân thủ thỏa thuận hạt nhân năm 2015.

Tương tự, giá than luyện cốc cũng bật mạnh trong phiên 25/6 do nguồn cung khan hiếm trong khi nhu cầu tăng mạnh mẽ.

Than cốc kỳ hạn tháng 9/2021 trên sàn Đại Liên tăng 1,1% lên 2.827 CNY (tương đương 438,21 USD)/tấn, tính cả tuần giá tăng 5%; than luyện cốc kỳ này cũng tăng 0,2% lên 2.045 CNY/tấn và cả tuần tăng 4,6%.

Theo dữ liệu khảo sát của Công ty Tư vấn Mysteel, tồn trữ than luyện cốc của 100 nhà máy luyện cốc và 110 nhà máy thép vào ngày 25/6/2021 đã giảm 3,2% xuống 15,7 triệu tấn so với một tuần trước đó do nguồn cung khan hiếm trong bối cảnh các cuộc thanh tra sản xuất an toàn và môi trường diễn ra thường xuyên hơn thời gian gần đây.

Kim loại: Vàng tăng tuần đầu tiên sau 4 tuần, kim loại công nghiệp cũng tăng giá

Ở nhóm kim loại quý, phiên 25/6, giá vàng tăng mạnh sau khi dữ liệu cho thấy chi tiêu của người tiêu dùng Mỹ vẫn trì trệ, làm giảm bớt khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ sớm thắt chặt chính sách tiền tệ.

Cụ thể, giá vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.776,96 USD/ounce, cả tuần tăng khoảng 0,8%; vàng kỳ hạn tháng 8/2021 vững giá ở mức 1.782,80 USD/ounce và tính chung cả tuần, giá vàng đi lên lần đầu tiên trong 4 tuần qua.

Nhà phân tích Suki Cooper thuộc Standard Chartered cho biết, mức hỗ trợ trong ngắn hạn của giá vàng hiện là 1.770 USD/ounce, mức kháng cự là giá trung bình của 100 ngày gần đây.

Dữ liệu trước đó cho thấy chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE), chỉ số Fed thường dùng làm căn cứ cho chính sách tiền tệ, tháng 5/2021 thấp hơn kỳ vọng. Do đó, giá vàng hiện nay biến động chủ yếu dựa vào USD, nhưng đồng tiền này cũng đã ổn định trở lại.

Nhà phân tích Peter Fertig của công ty nghiên cứu Quantitative Commodity Research cho rằng, các chỉ số kỹ thuật cũng hỗ trợ giá vàng sau khi giá kim loại quý này dường như đã chạm đáy từ đợt bán tháo của tuần trước.

Ngân hàng CIBC của Canada cũng lạc quan rằng, giá vàng có cơ hội để trở về mức 2000 USD/ounce. Trong một thông tin công bố ngày 24/6/2021, CIBC đã điều chỉnh giảm 10% dự báo về giá vàng và bạc năm nay, theo đó, giá vàng được dự báo sẽ ở mức trung bình 1.925 USD/ounce trong năm 2021 và đạt 2.100 USD/ounce vào năm 2022.

Ở nhóm kim loại công nghiệp, kết thúc phiên 25/6, trên sàn London, giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng ổn định ở mức 9.417 USD/tấn, tính cả tuần tăng khoảng 5%.

Giá đồng đứng vững trong phiên cuối tuần qua sau khi lưỡng đảng Mỹ tại Thượng viện đạt được sự đồng thuận về gói chi tiêu cho hạ tầng cơ sở trị giá 1.200 tỷ USD trong 8 năm, giúp củng cố kỳ vọng về nhu cầu đồng sẽ tăng trong thời gian tới. Tuy nhiên, các nhà giao dịch đồng vẫn lo ngại về việc Fed sẽ thắt chặt chính sách tiền tệ sớm hơn dự kiến làm cản trở giá đồng đi lên.

Nhà phân tích Oliver Nugent của Citi cho biết: “Thị trường kim loại biến động trong tuần do sự tác động từ những thông tin từ Mỹ, Fed đang đẩy lùi mọi thứ ra xa một chút và kế hoạch cơ sở hạ tầng đã tạo thêm động lực. Đây là một năm mà nhu cầu tăng trưởng thực sự xảy ra ơ khắp nơi trên thế giới, không chỉ ở Trung Quốc”.

Thực tế, thị trường kim loại thường tập trung vào Trung Quốc, nơi chiếm khoảng một nửa lượng tiêu thụ kim loại công nghiệp trên toàn cầu.

Giá thiếc cũng tăng 0,5% trong phiên 25/6, lên mức 30.800 USD/tấn, sau khi Yunnan Tin thông báo sẽ tạm dừng sản xuất tại nhà máy luyện thiếc chính trong thời gian tối đa 45 ngày kể từ ngày 28/6/2021 để bảo trì. Đầu tháng 6/2021, giá thiếc đã tăng lên mức cao chưa từng có trong một thập kỷ trở lại đây, đạt mức 33.181 USD/tấn, do lo ngại sẽ xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn cung nghiêm trọng.

Về các kim loại công nghiệp khác, giá nhôm tăng 1,9% lên 2,486 USD/tấn, kẽm giảm 0,4% xuống 2,903 USD, chì tăng 0,2% lên 2,225 USD và nickel tăng 0,8% lên 18,545 USD/tấn.

Giá sắt thép tăng trong phiên cuối tuần qua, trong bối cảnh nhu cầu mạnh từ các nhà máy trong khi nguồn cung khan hiếm. Cụ thể, giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng 1,2% lên 1.185 CNY/tấn; quặng sắt 62% nhập khẩu giao ngay tại cảng biển Trung Quốc phiên liền trước giảm 2 USD xuống 217 USD/tấn, theo Công ty Tư vấn SteelHome.

Giá thép cây dùng trong xây dựng, kỳ hạn tháng 10/2021 giao dịch trên Sàn Thượng Hải phiên 25/6 tăng 1,8% lên 5.066 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng, được sử dụng trong lĩnh vực sản xuất, tăng 1,8% lên 5.288 CNY/tấn; thép không gỉ kỳ hạn giao tháng 8 /2021 tại Thượng Hải tăng 1,8% lên 16.750 CNY/tấn.

“Giá quặng sắt và thép một lần nữa tăng trở lại trong bối cảnh nhu cầu mạnh mẽ từ ngành thép Trung Quốc và các vấn đề về nguồn cung từ các nhà sản xuất lớn nhất toàn cầu”, Fitch Solutions viết trong một thông báo.

Tuy nhiên, Fitch Solutions cũng cho rằng, sự cải thiện về nguồn cung và tiêu thụ ở hạ nguồn sẽ yếu đi do yếu tố mùa vụ, bên cạnh việc giá tăng quá cao sẽ cản trở giá sắt thép tăng hơn nữa trong thời gian tới.

Nông sản: Đồng loạt giảm giá

Giá ngũ cốc trên Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) của Mỹ đồng loạt giảm trong phiên giao dịch ngày 25/6, trong đó giảm mạnh nhất là ngô. Chốt phiên , giá ngô giao tháng 12/2021 giảm 16,75 US cent (-3,13%) xuống 5,1925 USD/bushel; lúa mỳ giao tháng 9/2021 giảm 11,25 US cent (-1,73%) xuống 6,4075 USD/bushel, trong khi đậu tương giao tháng 11/2021 giảm 22 US cent (-1,7%) xuống 12,6975 USD/bushel.

Giá các mặt hàng nông sản trên sàn CBOT sụt giảm sau thông tin Tòa án Tối cao Mỹ cho phép Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA) cấp quyền miễn trừ, không phải tuân thủ tỷ lệ pha trộn nhiên liệu sinh học cho các nhà máy lọc dầu nhỏ.

Yếu tố thời tiết không thuận lợi cũng là nguyên nhân ảnh hưởng tới giá nông sản tại Mỹ. Thời tiết dự sẽ khô hơn nhiều ở khu vực đồng bằng và Tây Trung Tây nên tình hình khô hạn tại Kansas, Nebraska, Minnesota và Dakotas chưa thể cải thiện. Ngược lại, vùng đồng bằng phía đông và Trung Tây sẽ tiếp tục có mưa vào ngày 29-30/6 và việc mưa quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến mùa màng ở các bang Illinois và Indiana.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá cà phê, cao su và đường cùng tăng

Cũng trong phiên 25/6, giá cà phê arabica tăng mạnh do đồng real Brazil đạt mức cao nhất 1 năm so với USD. Theo đó, arabica kỳ hạn tháng 9/2021 tăng 4,4 US cent (+2,9%) lên 1,578 USD/lb, cả tuần tăng 4,6%.

Ngoài việc đồng real tăng giá, điều kiện thời tiết khô hạn ở Brazil - nhà sản xuất cà phê hàng đầu thế giới, tiếp tục gây tác động tới sản lượng sản xuất. Dự báo các vùng trồng cà phê của nước này sẽ ít khả năng có mưa trong 10 ngày tới.

Tương tự, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2021 cũng tăng 29 USD (+1,8%) lên 1.679 USD/tấn. Lượng robusta lưu kho ở sàn ICE bắt đầu giảm trong tháng 6/2021 do chênh lệch giá giữa robusta và arabica gia tăng, giúp đẩy tăng nhu cầu robusta.

Thực tế, nguồn cung cà phê từ các quốc gia Đông Nam Á tiếp tục bị tắc nghẽn do giá cước container quá cao. Tại Indonesia, vụ thu hoạch 2021 đã bắt đầu với dự báo đạt 9,4 triệu bao robusta và 1,3 triệu bao arabica (1 bao = 60 kg). Xuất khẩu cà phê của nước này trong năm 2021 ước đạt 7 triệu bao. Theo dữ liệu thương mại từ Sumatra, đảo sản xuất cà phê chính của Indonesia, xuất khẩu robusta của đảo trong tháng 4/2021 đạt 193.460 bao, giảm 81.388 bao, tức giảm hơn 29,61% so với cùng kỳ năm trước.

Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) ước tính sản lượng cà phê của Việt Nam niên vụ tới (bắt đầu từ ngày 1/10/2021) sẽ tăng 6,31% so với niên vụ hiện tại, đạt 30,83 triệu bao (gồm 29,68 triệu bao robusta và 1,15 triệu bao arabica).

Giá cao su kỳ hạn giao dịch tại Nhật Bản tăng trong phiên 25/6 sau khi Tổng thống Mỹ Joe Biden chấp nhận thỏa thuận về đầu tư cho cơ sở hạ tầng của lưỡng đảng tại Thượng viện, giúp làm tăng kỳ vọng về sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế lớn nhất thế giới. Giá dầu tăng cũng tác động tích cực lên thị trường cao su.

Theo đó, giá cao su kỳ hạn tháng 12 trên sàn Osaka đạt 239,9 JPY (2,2 USD)/kg, tăng 0,7 JPY so với giá lúc mở cửa là 239,2 JPY. Trong phiên, có lúc hợp đồng này đạt mức giá 244 JPY. Tính chung cả tuần, giá tăng 2,3% và là lần tăng đầu tiên trong vòng 4 tuần qua.

Cao su kỳ hạn tháng 9/2021 trên sàn Thượng Hải cùng phiên cũng tăng 260 CNY lên 13.230 CNY (2.051 USD)/tấn. Lượng cao su lưu kho ở sàn Thượng Hải tính đến ngày 25/6/2021 tăng 0,5% so với một tuần trước đó.

Đối với mặt hàng đường, giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2021 phiên 25/6 giảm 0,03 cent (-0,2%) xuống 16,90 cent/lb, nhưng tính cả tuần giá vẫn tăng 2,9%. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2021 tăng 1 USD (+0,2%) lên 427,8 USD/tấn.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn)

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn)
Tin bài liên quan