Diễn đàn Kết nối sản xuất, chế biến và xuất khẩu tôm nước lợ Việt Nam.

Diễn đàn Kết nối sản xuất, chế biến và xuất khẩu tôm nước lợ Việt Nam.

Việt Nam là quốc gia cung cấp tôm đứng thứ hai thế giới

0:00 / 0:00
0:00
Việt Nam trở thành nước cung cấp tôm đứng thứ hai thế giới với giá trị xuất khẩu chiếm 13 - 14% tổng giá trị xuất khẩu tôm của toàn thế giới.

Thông tin này được đưa ra tại diễn đàn Kết nối sản xuất, chế biến và xuất khẩu tôm nước lợ Việt Nam vừa diễn ra tại TP.HCM.

Cụ thể, theo ông Ngô Thế Anh, Trưởng phòng Nuôi trồng thủy sản, Cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện tôm Việt Nam đã được xuất khẩu đến khoảng 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, với 5 thị trường lớn gồm châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc.

Việt Nam trở thành nước cung cấp tôm đứng thứ hai thế giới với giá trị xuất khẩu chiếm 13 - 14% tổng giá trị xuất khẩu tôm của toàn thế giới.

Trong 6 tháng đầu năm 2023, diện tích thả nuôi tôm nước lợ của cả nước đạt 656.000 ha, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó diện tích tôm sú 605.000 ha, tôm thẻ chân trắng 51.000 ha. Sản lượng tôm nước lợ của cả nước đạt 467.000 tấn, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2022.

Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu tôm 6 tháng đầu năm chỉ đạt 1,546 tỷ USD, giảm 31,9% so với cùng kỳ năm 2022 và bằng 35,9% so với kế hoạch năm 2023 (4,3 tỷ USD). Riêng trong tháng 6 xuất khẩu tôm đạt 328,9 triệu USD, giảm 20,9% so với cùng kỳ năm 2022.

Ông Lê Thanh Hòa, Phó cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường nhận định, nguyên nhân của sự sụt giảm này là do suy giảm kinh tế toàn cầu, nhu cầu tiêu thụ chậm; lạm phát và lãi suất tăng cao tại Mỹ, EU, Hàn Quốc; tồn kho nhiều, các nhà nhập khẩu ráo riết giải phóng hàng tồn; các nước Indonesia, Ecuador thu hoạch sớm tôm với sản lượng và kích cỡ tôm cạnh tranh với tôm Việt Nam.

Bên cạnh đó, ngành tôm Việt cũng đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức như biến đổi khí hậu, hạn mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long dẫn tới nguy cơ bùng phát dịch bệnh; nguồn giống còn bị phụ thuộc nhiều, khó kiểm soát chất lượng; hạ tầng vùng nuôi chưa đảm bảo; sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún; liên kết chuỗi sản xuất chưa chặt chẽ, hiệu quả….

Trước thực trạng này, ông Ngô Thế Anh kiến nghị các doanh nghiệp, hộ sản xuất cần áp dụng kỹ thuật mới, tiên tiến vào sản xuất nhằm tiết kiệm nước, nhiên liệu, hướng tới không sử dụng kháng sinh trong sản xuất, tạo sản phẩm có chất lượng, giá trị cao,…

Đồng thời, các doanh nghiệp cần duy trì sản xuất, ổn định tâm lý người nuôi, không thu hoạch ồ ạt; hướng dẫn kỹ thuật phù hợp điều kiện, bối cảnh hiện tại theo hướng mật độ thả có thể giảm, cỡ thu hoạch lớn kết hợp các giải pháp giảm chi phí đầu vào…

Ngoài ra, cần nhanh chóng giảm các chi phí trung gian, thức ăn, vật tư đầu vào, giảm giá thành sản phẩm để duy trì sản xuất và đảm bảo kế hoạch của năm…

Trong khi đó, theo ông Lê Thanh Hòa, cần có sự vào cuộc và phối hợp giữa nhiều cơ quan như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương, các Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài để đẩy mạnh đàm phán ký kết hiệp định thương mại để đa dạng hoá thị trường sản phẩm; hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các cam kết, khai thác các cơ hội từ các hiệp định; ưu tiên nguồn lực xúc tiến thương mại mở rộng thị trường, kết nối giao thương thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm tôm.

Đồng thời, cập nhật và thông tin kịp thời các quy định thị trường, tháo gỡ các rào cản thương mại thúc đẩy xuất khẩu; nắm bắt, tận dụng tối đa các cơ hội thúc đẩy xuất khẩu vào các thị trường mà Việt Nam đã ký kết các hiệp định thương mại tự do.

Tin bài liên quan