Cá tra và tôm là hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam, với thị trường lớn nhất là Trung Quốc và Mỹ.

Cá tra và tôm là hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam, với thị trường lớn nhất là Trung Quốc và Mỹ.

Xuất khẩu thủy sản "mắc cạn"

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Sau vài tháng đầu năm ghi nhận lượng đơn hàng bùng nổ, thời gian gần đây, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản đang như “cá mắc cạn” với bài toán đầu ra.

Đơn hàng sụt giảm

Ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Thực phẩm Sao Ta (Sao Ta, mã chứng khoán FMC) cho biết, từ cuối quý III/2022, các đơn hàng có dấu hiệu suy giảm rõ rệt. Không ít doanh nghiệp thủy sản rơi vào tình trạng bị đối tác hoãn giao đơn hàng đã ký kết, thậm chí hủy một số đơn hàng đã thỏa thuận, chậm chạp trong việc trao đổi kế hoạch kinh doanh năm sau. Với tình hình hiện nay, khó khăn dự kiến kéo dài ít nhất đến nửa đầu năm 2023.

Ông Lê Bảo Toàn, Giám đốc Tài chính kiêm Kế toán trưởng Công ty cổ phần Thủy sản Minh Phú - Hậu Giang (công ty con của Tập đoàn Thủy sản Minh Phú) chia sẻ, vài tháng gần đây, khó khăn lớn của doanh nghiệp là lượng hàng thủy sản xuất khẩu đi Mỹ, châu Âu sụt giảm so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong khi đó, lãi suất vay USD tăng từ 1,6 - 1,8%/năm trong tháng 10/2021 lên 4%/năm hiện nay, khiến chi phí lãi vay của doanh nghiệp gia tăng. Bên cạnh đó, tỷ giá tăng cao, dẫn tới lỗ chênh lệch tỷ giá, dù doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ, bởi phát sinh khoản tiền vay bằng USD.

Thực tế, lạm phát khiến người dân các quốc gia nhập khẩu thắt chặt chi tiêu, đơn hàng ngày càng ít. Đáng lưu ý, giá nguyên vật liệu đầu vào, chi phí sản xuất vẫn ở mức cao, hàng tồn kho lớn, các nhà nhập khẩu ép giá.

Tại Sao Ta, hàng tồn kho của doanh nghiệp cuối quý III/2022 là 1.003,9 tỷ đồng, chiếm gần 32% tổng tài sản; trong đó, nguyên vật liệu hơn 86 tỷ đồng, thành phẩm 633,4 tỷ đồng.

Với Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, hàng tồn kho chưa hợp nhất (không bao gồm các công ty con) tính đến cuối tháng 9/2022 là hơn 2.000 tỷ đồng, gấp đôi mức đầu năm 2022. Giá trị hàng tồn kho hợp nhất của tập đoàn này là 5.179,9 tỷ đồng, tăng gần 3% so với quý II, tăng 16% so với đầu năm 2022 và chiếm 47,5% tổng tài sản. Trong đó, nguyên vật liệu 169,7 tỷ đồng, thành phẩm, hàng hóa 4.931,2 tỷ đồng.

Đối với Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn (mã chứng khoán VHC), hàng tồn kho cuối quý III/2022 là 2.806 tỷ đồng, chiếm 23,6% tổng tài sản. Trong đó, tồn kho thành phẩm 1.263,5 tỷ đồng, tăng 38%; nguyên vật liệu 481 tỷ đồng, tăng gần 7% so với quý II.

Lượng hàng tồn kho giá cao hiện nay của các doanh nghiệp được nhận định còn lớn, trong khi khâu bảo quản, lưu kho và hậu cần nói chung (logistics) vẫn là điểm yếu của không ít doanh nghiệp.

Ông Lực cho rằng, doanh nghiệp nào phát triển bài bản, có chiến lược, tầm nhìn, thấy được xu thế tiêu thụ giảm sẽ nhanh chóng giải phóng hàng tồn kho với giá “mềm”, thậm chí chấp nhận lỗ, để tránh rủi ro tồn đọng và kẹt vốn.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), cuộc khảo sát với 117 doanh nghiệp thủy sản cho thấy, các doanh nghiệp lo ngại về hoạt động sản xuất từ nay đến năm 2023. Nguyên nhân chủ yếu là tỷ giá biến động, nguồn vốn bị thắt chặt; kinh tế thế giới suy thoái, lạm phát làm giảm nhu cầu dẫn đến tồn kho tăng; cạnh tranh gay gắt hơn từ những thị trường đối thủ có chi phí thấp và giá bán rẻ như Ecuador, Ấn Độ.

Tập trung vào các thị trường trọng điểm

Năm 2023, trong 117 doanh nghiệp thủy sản trên, có 75% số doanh nghiệp kỳ vọng thị trường Trung Quốc mở cửa, 60% kỳ vọng 2 thị trường lớn phục hồi, 50% kỳ vọng lạm phát đạt đỉnh.

Ông Hồ Quốc Lực cho biết, Trung Quốc chiếm tỷ trọng 15% thủy sản Việt Nam xuất khẩu, chủ yếu là cá tra. Với tôm, nước này có 1.000 doanh nghiệp tôm quy mô tương đương Sao Ta, mỗi năm nhập khẩu cả triệu tấn từ 3 thị trường lớn là Ecuador, Ấn Độ và Argentina về chế biến lại. Doanh nghiệp Việt Nam rất khó thâm nhập sản phẩm tôm cao cấp vào thị trường Trung Quốc, bởi hệ thống tiêu thụ hầu như do các doanh nghiệp nội địa chi phối.

Về cá tra, theo thống kê của VASEP năm 2021, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm 27,8% và Vĩnh Hoàn là doanh nghiệp đứng thứ 5 về xuất khẩu vào thị trường này.

Trong tháng 11/2022, kim ngạch xuất khẩu thủy sản giảm trên 14% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó, xuất khẩu tôm, cá tra, cá ngừ giảm từ 20 - 26%.

Trong các thị trường xuất khẩu của Vĩnh Hoàn, Trung Quốc đứng thứ hai, chiếm 15% thị phần, với sản phẩm chính là cá tra đông lạnh và các phụ phẩm cá tra như bột cá, dầu cá.

Đối với tôm, ông Lực cho rằng, các doanh nghiệp cần đánh giá lại sách lược về thị trường. Mỹ là thị trường nhập khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng gần 20% trong 10 tháng đầu năm 2022, nhưng Việt Nam đang gặp bất lợi trong cạnh tranh với Ecuador và Ấn Độ. Hai nước này có lợi thế vị trí địa lý gần các thị trường trọng điểm, logistics thuận lợi, quy mô nuôi trồng lớn, sản lượng lớn, chi phí thấp, không có tồn kho. Đặc biệt, trong thời gian qua, giá tôm từ các thị trường đối thủ có xu hướng giảm, nhất là Ecuador giảm mạnh giá tôm cỡ vừa và lớn. Xuất khẩu tôm Việt Nam sang Mỹ đã giảm liên tục ở mức 2 con số từ tháng 6 đến tháng 10/2022.

Dù vậy, Việt Nam có lợi thế chế biến hàng đầu thế giới, nên các doanh nghiệp cần nỗ lực thâm nhập thị trường cao cấp mà các đối thủ tôm chưa vào được. Các thị trường gần như Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, nhập sản phẩm chế biến sâu, cao cấp, phù hợp với lợi thế của doanh nghiệp Việt Nam. Thị trường Tây Âu cũng cần thâm nhập phân khúc cao cấp, đi liền với sự chuyển đổi quy mô nuôi đạt chuẩn để tăng thị phần tại đây.

Trên thế giới, hiện có 6 nước nuôi tôm đạt sản lượng cao là Ecuador, Ấn Độ, Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan. Xét về trình độ chế biến thì Việt Nam là cao nhất. Vì thế, giá tôm tiêu thụ trung bình của Việt Nam là cao nhất và Ecuador là thấp nhất.

Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nhu cầu lương thực, thực phẩm của người dân vẫn là số 1, nên ngành thủy sản không phải chịu sức ép quá lớn từ nhu cầu sụt giảm như ngành dệt may, da giày, đồ gỗ... Tuy nhiên, lạm phát vẫn là mối đe dọa. Người tiêu dùng vẫn sử dụng thực phẩm, nhưng sẽ ưu tiên lựa chọn sản phẩm có giá thành rẻ, phân khúc thấp. Do đó, các doanh nghiệp cần đặt bài toán tiết kiệm chi phí lên hàng đầu, nâng cao ý thức tiết kiệm, cắt giảm các chi phí không cần thiết để giảm chi phí sản xuất xuống mức thấp nhất, gia tăng cạnh tranh.

Kinh tế vĩ mô hiện nay của Việt Nam được đánh giá tốt nên sẽ không bị tác động nhiều bởi vấn đề bên ngoài như giai đoạn năm 2008. Trên cơ sở đó, VASEP cho rằng, doanh nghiệp không nên quá bi quan, mà phải tiếp tục cầm cự để đón bắt các cơ hội trong thời gian tới.

Theo ông Võ Văn Phục, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Thủy sản sạch Việt Nam, ngành tôm Việt Nam không phát triển dựa trên nền tảng nuôi trồng, mà đang phát triển mạnh nhờ vào trình độ chế biến. Nếu không nhanh chóng có những giải pháp, chiến lược phù hợp, hiệu quả thì vài năm tới, khi các đối thủ bắt kịp trình độ chế biến, họ sẽ chiếm lĩnh cả phân khúc cao cấp này nhờ lợi thế giá thành tôm rẻ.

Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký VASEP cho biết, ngành tôm Việt Nam phần lớn đang nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến hay bán thâm canh và thâm canh, diện tích nuôi tôm quy mô trang trại chỉ chiếm khoảng 10%, nên tỷ lệ thành công trung bình của nghề nuôi chưa đến 40%.

Tin bài liên quan