Để tài sản bảo đảm thực sự… đảm bảo

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc điều hành Công ty Luật BASICO chia sẻ góc nhìn xung quanh dự thảo Nghị định quy định điều kiện tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ - đang lấy ý kiến từ các tổ chức, cá nhân trước khi trình Chính phủ xem xét ban hành.

Theo dữ liệu từ Wichart, số dư nợ xấu của các ngân hàng niêm yết vào cuối quý II/2025 tăng tới hơn 16,2% so với cùng kỳ, lên gần 267.329 tỷ đồng. Có ý kiến cho rằng, bên cạnh nguyên nhân khách quan là thiên tai, khó khăn từ nền kinh tế trong và ngoài nước ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của nhiều khách hàng thì khoảng trống trong hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu là nguyên nhân khiến nợ xấu tăng cao. Ông có đồng tình với quan điểm này?

Đúng là có những điểm nghẽn pháp lý đã và đang khiến cho việc xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại trở nên khó khăn, mất thời gian hơn, liên quan trực tiếp đến vấn đề xử lý tài sản bảo đảm, nhất là bất động sản.

Ngành ngân hàng luôn đứng giữa hai khuôn khổ thực tế áp dụng pháp luật: một bên là hệ thống pháp luật bảo đảm (bao gồm cả những thoả thuận cam kết từ chủ tài sản bảo đảm) cho phép ngân hàng toàn quyền xử lý tài sản, bên kia là một hệ thống các quy định, chế tài rắc rối, sẵn sàng áp đặt lên ngân hàng nếu tự ý tiến hành xử lý tài sản thu nợ vay.

Luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc điều hành Công ty Luật BASICO

Luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc điều hành Công ty Luật BASICO

Ví dụ, cán bộ ngân hàng thu giữ nhà thế chấp hợp pháp dù chỉ áp dụng biện pháp niêm phong, khoá nhà thôi cũng có thể bị xem xét xử lý hình sự về tội xâm phạm chỗ ở của người khác. Trong khi xét về thỏa thuận, chủ tài sản đã đồng ý dùng tài sản để bảo đảm có nghĩa đã tự mình chấp nhận hạn chế các quyền liên quan về chỗ ở. Và khi phát sinh các trường hợp bị thu giữ nhà theo thỏa thuận mình trực tiếp cam kết, đúng ra chủ tài sản đâu còn quyền chối bỏ cam kết.

Bên cạnh đó, Điều 301, Bộ luật Dân sự quy định trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm chỉ có thể kiện ra toà án yêu cầu giải quyết. Quy định này có thể khiến các tổ chức tín dụng không thể thu giữ, không thể phát mại, mà chỉ có đi kiện ra toà để đòi tài sản đảm bảo. Nghị định hướng dẫn Bộ luật Dân sự đã đặt thêm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ tài sản nếu không bàn giao tài sản bảo đảm nhưng vẫn không thể loại bỏ triệt để vướng mắc từ quy định này. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (mới được thông qua) đã bổ sung Điều 198a nhằm tăng cường quyền thu giữ của các tổ chức tín dụng nhưng các tổ chức tín dụng sẽ phải chờ khi Luật có hiệu lực vào tháng 10 tới.

Trong khi đó, giới ngân hàng vẫn phải thực hiện lựa chọn không mong muốn là khởi kiện ra tòa án để xử lý nợ, yêu cầu được xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, nhìn từ các vụ án tín dụng của ngân hàng, có rất nhiều vấn đề phát sinh đối với giới tài chính - ngân hàng khi giải quyết khoản nợ qua tòa án. Có vụ án, quá trình giải quyết kéo dài nhiều năm chỉ vì sau khi thụ lý, toà không thể triệu tập được bị đơn. Có vụ án, các tổ chức tín dụng còn phải đối mặt với nguy cơ hiểu và vận dụng pháp luật của chính tòa án. Rồi cả đến những chi phí không kiểm soát được phát sinh từ hoạt động tố tụng này.

Tất cả những vấn đề nói trên quả thực đã phần nào gây vướng mắc cho công tác xử lý tài sản bảo đảm thu hồi hồi nợ cho giới ngân hàng. Điều đó đương nhiên khiến nợ xấu gia tăng.

Việc xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ của các ngân hàng đang có điểm nghẽn về pháp lý

Việc xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ của các ngân hàng đang có điểm nghẽn về pháp lý

Dự thảo Nghị định hướng dẫn Điều 198a của Luật Các tổ chức tín dụng 2024, đã được sửa đổi, bổ sung tại Luật số 96/2025/QH15 đang thu hút sự quan tâm của giới tài chính - ngân hàng, đặc biệt liên quan tới quy định về điều kiện tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu bị thu giữ. Ông có thể chia sẻ quan điểm xung quanh dự thảo này?

Nội dung quy định tại Điều 198a của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng nhằm tăng quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ và cũng tháo gỡ trở ngại từ quy định tại Điều 301, Bộ luật Dân sự, nhằm bảo đảm không nhất thiết cứ phải khởi kiện ra tòa khi bên chủ tài sản không giao tài sản. Đây là điều cần thiết với giới ngân hàng. Tuy nhiên, nội dung dự thảo Nghị định quy định điều kiện tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ cần thận trọng xem xét lại.

Cụ thể, Dự thảo Nghị định đang xác định tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ khi đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 198a và các điều kiện sau: không phải là nhà ở duy nhất của bên bảo đảm; không phải là công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất của bên bảo đảm.

Giá trị cốt lõi của việc nhận tài sản bảo đảm là để ngân hàng có thể thu hồi nợ trong trường hợp khách hàng không trả nợ đúng hạn bằng cách xử lý tài sản bảo đảm và thu nợ. Khi một cá nhân đã tự nguyện đưa tài sản của mình vào làm tài sản bảo đảm, cho dù đó là căn nhà duy nhất hay công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất, điều đó đồng nghĩa với việc họ đã chấp nhận tự đặt khả năng bị tước bỏ quyền sở hữu của mình, chấp nhận tài sản có thể bị xử lý nếu nghĩa vụ không được thực hiện. Đây chính là cam kết mang tính tự nguyện, gắn liền với trách nhiệm pháp lý mà bên bảo đảm phải thực hiện trong giao dịch và quyền tự định đoạt hợp pháp đã được Bộ luật Dân sự thừa nhận.

Từ dự thảo sẽ phát sinh một thực tế, tài sản là nhà ở duy nhất, công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất vẫn được pháp luật cho phép giao kết giao dịch bảo đảm, nhưng lại không cho phép thu giữ để xử lý tài sản bảo đảm. Điều này sẽ tạo nên một mâu thuẫn pháp lý và giới ngân hàng băn khoăn đặt câu hỏi: Vậy thì pháp luật cho phép nhận các tài sản bảo đảm này để làm gì?

Đặt giả thiết quyền thu giữ tài sản của chủ nợ có bảo đảm bị hạn chế theo nội dung dự thảo Nghị định, liệu sẽ dẫn đến tác động gì đối với các ngân hàng?

Để tuân thủ quy định này, các ngân hàng buộc phải chắc chắn ngay từ thời điểm xác lập giao dịch rằng tài sản bảo đảm phải không phải là nhà ở duy nhất hoặc công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất của bên bảo đảm, tuy nhiên, việc xác định điều kiện như vậy không dễ dàng.

Dù dự thảo có cơ chế yêu cầu bên bảo đảm xác nhận và cam kết về tình trạng của tài sản ngay khi ký hợp đồng, nhưng về logic, xác nhận này không có nhiều ý nghĩa. Nếu chủ tài sản xác nhận tài sản bảo đảm thuộc các trường hợp không được thu giữ, gần như chắc chắn ngân hàng sẽ từ chối nhận bảo đảm. Như vậy, sẽ có nhiều khoản cấp tín dụng không thể đến với những nhu cầu tín dụng.

Ngược lại, nếu chủ tài sản xác nhận tài sản không phải là nhà ở duy nhất hoặc công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất của họ, các ngân hàng cũng sẽ đặt rất nhiều hoài nghi. Bởi thực tiễn xử lý nợ cho thấy, khi phát sinh nợ xấu thì các chủ tài sản thường tìm mọi cách để thoái thác trách nhiệm bị xử lý tài sản bảo đảm. Khi đó, rất có thể chủ tài sản sẽ phủ nhận cam kết trước đó về tình trạng tài sản và chứng minh ngược lại rằng tài sản bảo đảm là nhà ở duy nhất hoặc công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất của họ. Gặp trường hợp này, rủi ro tranh chấp kiện tụng và bị thua kiện có thể xảy ra với ngân hàng.

Theo ông, có giải pháp nào để cân bằng lợi ích của ngân hàng và chủ tài sản bảo đảm?

Rất có thể, theo quan điểm của cơ quan soạn thảo, cần bảo đảm an sinh xã hội ở những trường hợp đối tượng chủ tài sản bảo đảm được bảo vệ bởi quy định điều kiện về loại trừ quyền thu giữ của bên nhận bảo đảm. Tuy nhiên, xét từ phía người dân, cho dù là nhà ở duy nhất, công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất thì khi có nhu cầu tín dụng cũng vẫn cần bảo đảm cho họ được quyền thế chấp nhằm được cấp khoản vay cho nhu cầu của mình. Quy định tại dự thảo đã gián tiếp tước bỏ quyền năng này của họ.

Cần quay trở lại mục đích gốc rễ của giao dịch bảo đảm, đó là nhằm đảm bảo khả năng giá trị nghĩa vụ được bảo đảm xử lý bằng tài sản một khi nghĩa vụ không được thực hiện đúng. Với các ngân hàng, giao dịch này nhằm bảo đảm cho chất lượng tín dụng được tốt, rủi ro tín dụng được kiểm soát. Không chỉ vậy, mục đích này còn bảo đảm cho sự an toàn huy động tiền gửi của giới ngân hàng, bởi nếu tín dụng được quản lý rủi ro tốt, ngân hàng sẽ bảo đảm được khả năng chi trả cho người gửi tiền. Do vậy, mục đích gốc rễ này cần phải được phản ánh xuyên suốt trong mọi chính sách pháp luật liên quan.

Tin bài liên quan