Nhận diện điểm cần sửa đổi trong Nghị quyết 42

Nhận diện điểm cần sửa đổi trong Nghị quyết 42

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết số 42) đã mang lại hiệu quả tích cực trong việc hỗ trợ hệ thống ngân hàng xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, qua gần 5 năm thực hiện, đã xuất hiện những khó khăn vướng mắc đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung.

Hơn 354.000 tỷ đã được xử lý theo Nghị quyết 42

Đến thời điểm 30/6/2021, việc xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD đã đạt được một số kết quả quan trọng. Trong đó, nợ xấu nội bảng tính đến cuối tháng 6/2021, của các tổ chức tín dụng (TCTD) là 1,73%, giảm so với thời điểm trước khi triển khai Nghị quyết số 42. Tính từ cuối năm 2017 đến 30/6/2021, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 677.000 tỷ đồng nợ xấu nội bảng.

Bên cạnh kết quả trong xử lý nợ xấu nói chung, xử lý nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 cũng đạt được kết quả tích cực. Theo báo cáo của các TCTD, tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 của toàn hệ thống các TCTD đến 30/6/2021 là 425.500 tỷ đồng, giảm 3,4% so với cuối năm 2020. Lũy kế từ 15/8/2017 đến 30/6/2021, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 354.600 tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42.

Trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng là 183.000 tỷ đồng (chiếm 51,61% tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã xử lý); xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán xác định theo Nghị quyết số 42 là 93.500 tỷ đồng (chiếm 26,37% tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã xử lý); xử lý các khoản nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt là 78.100 tỷ đồng (chiếm 22,02% tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã xử lý).

Tổng số nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 được xử lý từ 15/8/2017 đến 30/6/2021 đạt trung bình khoảng 5.950 tỷ đồng/tháng, cao hơn 2.430 tỷ đồng/tháng so với kết quả xử lý nợ xấu trung bình tại thời điểm trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (trung bình từ năm 2012 - 2017, hệ thống các TCTD xử lý được khoảng 3.520 tỷ đồng/tháng).

Trước khi có Nghị quyết số 42, nợ xấu của toàn hệ thống các TCTD chủ yếu được xử lý bằng dự phòng rủi ro, các biện pháp xử lý nợ xấu thông qua xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) và khách hàng trả nợ còn chưa cao. Tuy nhiên, kể từ khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực, xử lý nợ xấu nội bảng thông qua hình thức khách hàng trả nợ tăng cao, từ 15/8/2017 đến 30/6/2021, xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết số 42 thông qua hình thức khách hàng trả nợ là 136.500 tỷ đồng (chiếm 38,51% tổng nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đã xử lý), cao hơn nhiều so với tỷ trọng nợ xấu được xử lý do khách hàng tự trả nợ/tổng nợ xấu trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (tỷ trọng nợ xấu được xử lý do khách hàng trả trung bình năm từ 2012 - 2017 nợ/tổng nợ xấu là khoảng 22,8%).

Khó khăn, vướng mắc

Mặc dù xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đã đạt được kết quả tích cực, nhưng thực tế vẫn còn tồn tại một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.

Tại Báo cáo số 2154/BC-UBKT14 ngày 11/8/2020 đánh giá 3 năm thực hiện Nghị quyết số 42, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã nhận định: “... cơ bản thống nhất với 11 nhóm vấn đề khó khăn, vướng mắc nêu tại Báo cáo của Chính phủ. Theo đó, hiện còn nhiều TCTD phản ánh khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42, như việc thu giữ TSBĐ, thực hiện thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ, mua bán khoản nợ xấu và phát triển thị trường mua bán nợ, việc hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự, áp dụng thủ tục rút gọn trong xử lý tranh chấp tại tòa án... Đặc biệt là khó khăn, vướng mắc liên quan đến công tác phối hợp triển khai, hướng dẫn từ các bộ, ngành và địa phương. Bên cạnh đó, tác động của đại dịch Covid-19 làm cho quá trình xử lý nợ xấu trở nên khó khăn hơn”.

Kết luận tại Thông báo số 3844/TB-TTKQH ngày 17/8/2020 Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV đã khẳng định: “Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoan nghênh sự chủ động của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước trong việc đánh giá 3 năm thực hiện Nghị quyết số 42 bên cạnh việc đánh giá hàng năm theo quy định tại Khoản 3, Điều 19 của nghị quyết này… Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao những cố gắng của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các bộ, ngành trung ương và địa phương, đặc biệt là các TCTD trong triển khai thực hiện Nghị quyết số 42 trong thời gian qua đã đạt những kết quả rất tích cực. Tỷ lệ nợ xấu giảm, chất lượng tín dụng được cải thiện chứng tỏ sự đúng đắn, hiệu quả của việc thực hiện Nghị quyết….”.

Về mặt chỉ đạo triển khai, trên cơ sở ý kiến của Bộ Tư pháp và các bộ, ngành có liên quan về một số tồn tại trong quá trình triển khai Nghị quyết số 42 của các TCTD, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm, chỉ đạo, chủ trì hoặc giao Bộ Tư pháp chủ trì một số cuộc họp với các bộ, ban, ngành có liên quan (Văn phòng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội) để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của các TCTD trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 42.

Về cơ bản, các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố có liên quan đã tham gia giải quyết khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng Nghị quyết số 42 của các TCTD có hiệu quả bước đầu. Tuy nhiên, những vướng mắc này trên thực tế đến nay vẫn chưa được tháo gỡ hoàn toàn hoặc cách áp dụng còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất.Cụ thể, có thể đề cập tới một số khó khăn, vướng mắc nổi bật trong quá trình triển khai Nghị quyết số 42 cụ thể như sau:

Về mua bán nợ xấu, theo quy định của Khoản 3, Điều 6 - Nghị quyết số 42 quy định “Tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được thỏa thuận với tổ chức tín dụng quy định tại Khoản 1, Điều này mua khoản nợ xấu với giá mua bằng giá trị định giá của tổ chức định giá độc lập…”. Tuy nhiên, hiện nay Luật Giá năm 2012 chỉ quy định về các doanh nghiệp thẩm định giá chứ không quy định về các tổ chức định giá độc lập để định giá khoản nợ xấu.

Việc định giá các khoản nợ xấu hiện nay đang được các TCTD, doanh nghiệp có chức năng mua, bán nợ thuê các doanh nghiệp thẩm định giá vận dụng hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam để thực hiện. Để thẩm định giá các khoản nợ đôi khi việc vận dụng của các tổ chức thẩm định giá là khác nhau, gây khó khăn cho các bên trong việc lựa chọn mức giá tham khảo làm cơ sở xác định mức giá khởi điểm trong giao dịch mua bán nợ.

Về quyền thu giữ TSBĐ, Điều 7 Nghị quyết số 42 quy định “TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu...”. Thời gian qua, Bộ Công an cũng đã ban hành Quyết định số 9018/QĐ-BCA-A04 ngày 19/11/2019 về “Quy trình công tác đảm bảo an ninh trật tự quá trình thu giữ TSBĐ theo Nghị quyết số 42”.

Tuy nhiên, trên thực tế, theo phản ánh của các TCTD, phương thức thu giữ TSBĐ để xử lý nợ xấu chỉ thành công khi khách hàng hợp tác, hoặc trong một số trường hợp nhất định như khách hàng đã bỏ trốn khỏi địa phương mà TSBĐ không có tranh chấp, TSBĐ là đất trống…, còn khi khách hàng không hợp tác bàn giao TSBĐ, chống đối khi tiến hành thu giữ thì việc thu giữ thường không đạt được kết quả.

Về cơ chế tiếp cận thông tin về tình trạng TSBD, Khoản 2, Điều 7 - Nghị quyết số 42 quy định một trong các điều kiện để thu giữ TSBĐ là “TSBĐ không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật”.

Tuy nhiên, hiện tòa án, cơ quan thi hành án dân sự không có hệ thống dữ liệu cho phép các TCTD trích xuất, tra cứu thông tin tài sản có liên quan đến vụ việc đang được thụ lý giải quyết. Đồng thời, cũng chưa có hướng dẫn về cơ chế xác định sớm hữu hiệu trong quá trình thẩm định để xác định tài sản nào đang tranh chấp, tài sản nào đang phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, dẫn đến cách hiểu về tài sản tranh chấp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng tại nhiều nơi, nhiều cấp khác nhau, gây khó khăn khi áp dụng quy định về thu giữ tài sản theo Nghị quyết số 42.

Về xử lý các tài sản nằm trên/trong tài sản bị thu giữ. Trên thực tế thực hiện việc thu giữ phát sinh rất nhiều trường hợp nằm trên/trong tài sản bị thu giữ có các tài sản khác của bên bảo đảm hoặc bên thứ ba (các đồ gia dụng, điện tử, quần áo, giường tủ…) mà bên bảo đảm hoặc bên thứ ba không tự nguyện dời đi. Tuy nhiên, hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể để xử lý đối với các trường hợp này dẫn đến TCTD gặp nhiều khó khăn, phát sinh chi phí cho việc xử lý các tài sản này (thuê nơi trông giữ, hậu quả pháp lý của việc hao mòn, thiệt hại tài sản trong quá trình trông giữ, xử lý tranh chấp...).

Về thủ tục rút gọn, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn về việc áp dụng thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, trên thực tế, việc hoàn thiện các thủ tục theo yêu cầu của tòa án để áp dụng thủ tục rút gọn gặp nhiều khó khăn, như việc thực hiện quy định về xác nhận công nợ, tài liệu về nơi cư trú của người bị kiện (người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan), do khi xảy ra nợ xấu, đa phần khách hàng trốn tránh, không hợp tác với TCTD để phối hợp xử lý, nên việc xác nhận này rất khó thực hiện;…

Bên cạnh đó, theo quy định tại Khoản 3, Điều 317 - Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về điều kiện áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn và Khoản 4, Điều 323 - Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn thì trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn, nếu xuất hiện tình tiết mới mà các bên đương sự không thống nhất làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn thì tòa án phải ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường.

Như vậy, trường hợp bên có nghĩa vụ trả nợ/chủ tài sản/bên bảo đảm không hợp tác, chống đối, rất dễ dẫn đến trường hợp cố tình tạo ra các tình tiết mới làm cho vụ án không còn bảo đảm điều kiện quy định tại Khoản 1, Điều 8 - Nghị quyết số 42 để đưa vụ án về thủ tục tố tụng thông thường, dẫn đến việc không thể áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn theo quy định tại Nghị quyết số 42.

Ngoài các vướng mắc đề cập phía trên còn phải kể tới các khó khăn vướng mắc khác bao gồm phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn, xử lý TSBĐ là dự án bất động sản, thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ, việc hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự…

Những kiến nghị và đề xuất

Nghị quyết số 42 là Nghị quyết thí điểm nên hiệu lực chỉ kéo dài 5 năm, đến ngày 15/8/2022, Nghị quyết số 42 sẽ hết hiệu lực thi hành. Khi hết hiệu lực thi hành, toàn bộ cơ chế về xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đang được thực hiện sẽ chấm dứt, việc xử lý nợ xấu của TCTD sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan, không được ưu tiên áp dụng một số chính sách được quy định tại Nghị quyết số 42. Điều này sẽ tác động lớn đến quá trình xử lý nợ xấu của các TCTD, Công ty Quản lý tài sản của các TCTD, cũng như quá trình tái cơ cấu TCTD đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 nêu trên.

Do đó, để tiếp tục nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu và để chuẩn bị xây dựng Báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 42 trong thời gian tới, cần tập trung vào các vấn đề như sau:

Về hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu, TSBĐ, Quốc hội cần xem xét việc rà soát, nghiên cứu để luật hóa các chính sách quy định tại Nghị quyết số 42 để tiếp tục triển khai, áp dụng trong xử lý nợ xấu của TCTD theo hướng ban hành một luật riêng quy định về xử lý nợ xấu. Theo đó, tiếp tục kế thừa các quy định về xử lý nợ xấu tại Nghị quyết số 42 còn phù hợp; sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Nghị quyết số 42 mà thực tiễn triển khai trong thời gian qua gặp khó khăn, vướng mắc.

Việc sửa đổi cần tập trung vào các nội dung đã đề cập. Cụ thể là sửa đổi quy định về việc thu giữ TSBĐ (trên cơ sở sửa đổi đồng bộ với quy định của pháp luật hiện hành có liên quan) theo hướng TCTD có quyền thu giữ TSBĐ cho khoản nợ xấu mà không cần phải có thỏa thuận về việc bên nhận bảo đảm đồng ý cho TCTD có quyền thu giữ TSBĐ trong hợp đồng bảo đảm; sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 8 - Nghị quyết số 42 theo hướng có quy định loại trừ không áp dụng: Quy định về trường hợp xuất hiện tình tiết mới trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn (Khoản 3, Điều 317) và quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn (Khoản 4 Điều 323) của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đối với các vụ án giải quyết tranh chấp liên quan đến TSBĐ tại tòa án; sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 8 - Nghị quyết số 42 theo hướng bổ sung quy định cho phép áp dụng thủ tục rút gọn đối với các tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng có khoản nợ là nợ xấu; bổ sung quy định về việc hoàn trả TSBĐ là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Ngoài việc khắc phục các bất cập, tồn tại, để triển khai có hiệu quả trên thực tế, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong việc xử lý nợ xấu nói chung và xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 nói riêng, cũng cần có các giải pháp quan trọng khác cần được xem xét thực hiện.

Cụ thể, cần xem xét đến khía cạnh xử lý nợ xấu khi quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; đặc biệt là quy định liên quan đến thuế (bao gồm việc thực hiện nghĩa vụ thuế trong quá trình xử lý TSBĐ khi thu hồi nợ xấu của các TCTD).

Trong triển khai, Toà án nhân dân các cấp cần thi hành quy định về thủ tục rút gọn theo quy định pháp luật để giải quyết nhanh chóng yêu cầu khởi kiện theo quy định của Nghị quyết số 42 và Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP; phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Cơ quan thi hành án dân sự sớm có văn bản chỉ đạo về việc thực hiện quy định về hoàn trả các TSBĐ là vật chứng của vụ án hình sự sau khi đã hoàn tất các thủ tục xác định chứng cứ quy định tại Nghị quyết số 42; phối hợp với Cơ quan thi hành án dân sự sớm xây dựng hệ thống dữ liệu liên quan đến các vụ việc đang được thụ lý giải quyết và cho phép các TCTD được tra cứu trích xuất.

Xử lý nợ xấu không chỉ là việc của một giai đoạn mà thực tiễn cho thấy nợ xấu là một vấn đề luôn tồn tại song song với quá trình cho vay, quy mô tín dụng nền kinh tế càng lớn thì lượng nợ xấu cần phải xử lý càng lớn theo. Ngoài ra, những khó khăn kinh tế do tác động xấu từ dịch Covid-19 cũng đặt thêm các thách thức mới trong xử lý nợ xấu của ngành ngân hàng.

Do vậy, để quá trình xử lý nợ xấu được thuận lợi, giảm thời gian và chi phí cho các TCTD và xã hội, cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, thay thế và đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật về xử lý nợ xấu, TSBĐ của khoản nợ xấu trên cơ sở thực tiễn áp dụng các quy định tại Nghị quyết số 42 (trong đó bao gồm việc luật hóa các chính sách quy định tại Nghị quyết số 42 để tiếp tục triển khai, áp dụng trong xử lý nợ xấu của TCTD theo hướng ban hành một luật riêng quy định về xử lý nợ xấu).

Tin bài liên quan