Hoàn thiện “chu trình số” của nghĩa vụ thuế

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) GS. TS Mạc Quốc Anh - Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP. Hà Nội cho rằng, việc cho phép nộp thuế qua dịch vụ trung gian thanh toán giúp doanh nghiệp đẩy nhanh thời gian giải phóng hàng, tối ưu hóa chi phí quản trị và nâng cao tính chống chịu chuỗi cung ứng.
GS. TS Mạc Quốc Anh - Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP. Hà Nội

GS. TS Mạc Quốc Anh - Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP. Hà Nội

Như ông đã biết, Thông tư 51/2025/TT-BTC của Bộ Tài chính không chỉ giúp hoàn thiện cơ sở pháp lý, mà còn mở thêm kênh thanh toán, thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi số. Quy định mới này có ý nghĩa như thế nào trong bối cảnh hiện nay?

Về bản chất, Thông tư 51/2025/TT-BTC là bước hoàn thiện hành lang pháp lý cho “chu trình số” của nghĩa vụ thuế trong hoạt động xuất nhập khẩu, từ truy vấn nghĩa vụ, lập chứng từ, nộp/khấu trừ, xác nhận hoàn thành nghĩa vụ đến đối soát, tất cả được chuẩn hóa theo giao dịch điện tử, có tích hợp vai trò của ngân hàng và tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.

Tầm quan trọng của quy định mới này thể hiện ở ba điểm. Thứ nhất, mở rộng kênh nộp thuế điện tử: ngoài cổng thanh toán điện tử Hải quan, doanh nghiệp có thể nộp qua ngân hàng phối hợp thu; ngân hàng phối hợp thu kiêm ủy nhiệm thu với Kho bạc Nhà nước; đáng chú ý là qua ngân hàng hoặc tổ chức trung gian thanh toán chưa phối hợp thu - cơ chế “mở” giúp gia tăng bao phủ dịch vụ, giảm phụ thuộc vào một số ít định chế.

Thứ hai, thừa nhận và làm rõ vai trò của tổ chức trung gian thanh toán trong chuỗi thu ngân sách nhà nước về thuế xuất nhập khẩu; bảo đảm tính thông suốt về mặt dữ liệu từ khi ngân hàng, hoặc tổ chức trung gian thanh toán thực hiện trích/chuyển tiền vào tài khoản Kho bạc Nhà nước, thông tin thu được truyền ngay sang Cổng thanh toán điện tử Hải quan để hệ thống cấp chứng từ nộp ngân sách nhà nước cho người nộp thuế, qua đó rút ngắn thời gian giải phóng hàng.

Thứ ba, trên bình diện chính sách, Thông tư 51 tương thích với lộ trình thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt của Chính phủ, tạo nền tảng pháp lý nhất quán giữa khối tài chính công và hệ sinh thái thanh toán số của khu vực tư.

Như ông vừa nói thì quy định mới này góp phần minh bạch, cụ thể vai trò của tổ chức trung gian thanh toán trong nền kinh tế số. Điều này tạo điều kiện thuận lợi gì cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thưa ông?

Nhờ nhất quán về mặt pháp lý, Việt Nam chuyển từ giai đoạn “thí điểm” sang “chuẩn vận hành quốc gia”, qua đó tránh được rủi ro pháp lý cho ngân hàng, tổ chức trung gian thanh toán khi tham gia thu ngân sách nhà nước.

Từ góc độ doanh nghiệp xuất nhập khẩu, mở rộng kênh qua trung gian thanh toán đem lại các lợi ích định lượng và định tính. Thứ nhất, rút ngắn thời gian giải phóng hàng và giảm chi phí vốn. Cơ chế “ghi nhận thu ngay” khi trung gian thanh toán, ngân hàng trích chuyển tiền và truyền dữ liệu sang Cổng thanh toán điện tử Hải quan giúp doanh nghiệp giảm thời gian chờ, giảm chi phí cơ hội (vốn bị “treo” trong kho bãi) và rủi ro chậm dây chuyền logistic.

Thứ hai, tăng lựa chọn, giảm phụ thuộc. Điều này giúp doanh nghiệp ở những địa bàn có điều kiện hạ tầng ngân hàng hạn chế vẫn có thể nộp thuế kịp thời nhờ tận dụng hạ tầng trung gian thanh toán sẵn có (ví điện tử, cổng thanh toán, payment gateway).

Thứ ba, tối ưu hóa tích hợp với hệ thống nội bộ doanh nghiệp. Phần lớn trung gian thanh toán cung cấp API, webhook, dashboard theo thời gian thực, dễ tích hợp vào ERP/TMS để tự động lập chứng từ nộp ngân sách nhà nước, gắn mã tham chiếu (transaction ID), đối soát - khớp lệnh tự động T+0/T+1. Điều kiện kỹ thuật - kết nối, danh mục chuẩn trao đổi thông tin giữa hải quan - ngân hàng - trung gian thanh toán được Thông tư 51 quy định và quy trình của Cục Hải quan hướng dẫn cụ thể.

Thứ tư, diện bao phủ dịch vụ rộng hơn nhờ hệ sinh thái trung gian thanh toán. Hiện Ngân hàng Nhà nước đã cấp phép hàng chục tổ chức trung gian thanh toán, tạo “độ dày” mạng lưới chấp nhận và năng lực xử lý giao dịch quy mô lớn.

Thứ năm, đồng bộ với mạng lưới ngân hàng phối hợp thu 24/7. Thống kê cho thấy, đến cuối năm 2024, ngành Hải quan đã triển khai thu điện tử và thông quan 24/7 với 43 ngân hàng, ký phối hợp thu với 48 ngân hàng và có 8 ngân hàng triển khai nhờ thu. Điều này cho thấy “độ phủ” và năng lực back-up rất lớn khi doanh nghiệp chọn kênh thanh toán.

Mở rộng kênh thanh toán sẽ đẩy nhanh thời gian giải phóng hàng, giảm chi phí cho doanh nghiệp

Mở rộng kênh thanh toán sẽ đẩy nhanh thời gian giải phóng hàng, giảm chi phí cho doanh nghiệp

Để phát huy hiệu quả dịch vụ trung gian thanh toán thì chính bản thân các tổ chức trung gian thanh toán cũng cần vào cuộc. Ông có nghĩ như vậy không?

Đúng như vậy. Ngoài tuyên truyền của cơ quan Hải quan, chính tổ chức trung gian thanh toán cũng cần chủ động “nâng chuẩn” để doanh nghiệp yên tâm. Cụ thể là chuẩn hóa an toàn - bảo mật theo khung pháp lý hiện hành; cam kết về thời gian sẵn sàng của hệ thống, thời gian xử lý/đối soát; đồng bộ dữ liệu - đối soát theo thời gian thực; kiểm toán độc lập và chứng nhận kỹ thuật; có cơ chế bảo lãnh trách nhiệm và bồi thường trong trường hợp lỗi hệ thống, gây chậm giải phóng hàng.

Riêng trải nghiệm người dùng và hỗ trợ doanh nghiệp, tổ chức trung gian thanh toán cần xây dựng bộ SDK/API dễ tích hợp; mẫu biểu hóa luồng lập - ký - gửi chứng từ nộp ngân sách nhà nước (kể cả trường hợp nộp nhiều tờ khai bằng một chứng từ); cung cấp đường dây nóng 24/7 dành cho lô hàng gấp; tài liệu hóa “casebook” các lỗi thường gặp khi nộp thuế xuất nhập khẩu.

Quy định cho phép doanh nghiệp được nộp thuế qua tổ chức trung gian thanh toán có ý nghĩa như thế nào đối với việc thực hiện Đề án thanh toán không dùng tiền mặt theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, thưa ông?

Trước hết, Thông tư 51 hiện thực hóa mục tiêu “số hóa thanh toán công” của Đề án số 1813/QĐ-TTg về thanh toán không dùng tiền mặt: mở rộng phương tiện/định chế tham gia thanh toán cho khu vực công, tăng kết nối liên thông giữa cơ quan nhà nước - ngân hàng - trung gian thanh toán - doanh nghiệp. Giúp thanh toán không dùng tiền mặt từ “thói quen tiêu dùng” thành hành vi tuân thủ pháp luật số (nộp thuế, lệ phí) trong chuỗi giá trị xuất nhập khẩu.

Thứ hai, quy định mới tương thích với Nghị định 52/2024/NĐ-CP của Chính phủ quy định về thanh toán không dùng tiền mặt và Thông tư 15/2024/TT-NHNN - văn bản “vận hành” của hệ thống thanh toán. Nhờ nhất quán pháp lý, Việt Nam chuyển từ giai đoạn “thí điểm” sang “chuẩn vận hành quốc gia”, qua đó tránh được rủi ro pháp lý cho ngân hàng, tổ chức trung gian thanh toán khi tham gia thu ngân sách nhà nước.

Thứ ba, với mạng lưới phối hợp thu mở rộng, doanh nghiệp có nhiều tuyến thanh toán dự phòng, nâng độ bền vận hành cho thương mại quốc tế vốn nhạy cảm thời gian.

Thứ tư, trong bối cảnh dòng giao dịch số tăng bùng nổ và yêu cầu thông quan nhanh, giảm chi phí logistics để cải thiện năng lực cạnh tranh, Thông tư 51 giúp rút ngắn “last mile” của thủ tục thuế - hải quan. Đây là một biến số quan trọng trong nâng hạng môi trường kinh doanh và cải thiện chỉ tiêu hiệu quả chuỗi cung ứng.

Cuối cùng, về quản trị công, dữ liệu thanh toán ghi nhận theo thời gian thực giúp cơ quan quản lý theo dõi, dự báo và điều hành nguồn thu kịp thời, phối hợp hoàn, điều chỉnh thuế minh bạch (Thông tư 51 có quy trình chi tiết về điều chỉnh chứng từ, xử lý chuyển thừa/thiếu, hạch toán - trừ nợ). Khi tỷ lệ thu bằng tiền mặt của Bộ Tài chính đã giảm còn 0,069%, việc “điện tử hóa toàn trình” trong lĩnh vực thuế xuất nhập khẩu là bước đi tất yếu để củng cố tài khóa số.

Tin bài liên quan