Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 29/7-5/8: Dầu tăng giá tuần thứ 6 liên tiếp, nông sản cũng đi lên, kim loại trái chiều

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Kết thúc tuần giao dịch tuần từ 29/-5/87, thị trường hàng hóa thế giới chứng kiến giá dầu tăng tuần thứ 6 liên tục, ngô chấm dứt chuỗi 8 phiên giảm liên tiếp, giá vàng và đồng bật mạnh, đi ngược với quặng sắt, thép…
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 29/7-5/8: Dầu tăng giá tuần thứ 6 liên tiếp, nông sản cũng đi lên, kim loại trái chiều

Năng lượng: Giá dầu tăng tuần thứ 6 liên tiếp

Giá dầu thế giới tăng hơn 1 USD/thùng vào thứ Sáu (4/8) và là tuần tăng thứ sáu liên tiếp, sau khi các nhà sản xuất lớn là Ả Rập Xê-út và Nga gia hạn cắt giảm nguồn cung cho đến tháng 9, làm tăng thêm lo ngại về nguồn cung thiếu hụt.

Cụ thể, dầu thô Brent tăng 1,1 USD (+1,3%) lên 86,24 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) tăng 1,27 USD (+1,6%) lên 82,82 USD/thùng. Cả hai loại dầu đều đạt mức cao nhất kể từ giữa tháng 4/2023.

Ả Rập Xê-út đã gia hạn cắt giảm sản lượng dầu tự nguyện 1 triệu thùng mỗi ngày đến cuối tháng 9, để ngỏ khả năng gia hạn thêm một lần nữa. Nga cũng đã quyết định giảm xuất khẩu dầu 300.000 thùng mỗi ngày vào tháng tới.

“Với việc cắt giảm sản lượng kéo dài, chúng tôi dự đoán thị trường thâm hụt hơn 1,5 triệu thùng/ngày (bpd) trong tháng 9, sau mức thâm hụt khoảng 2 triệu thùng/ngày trong tháng 7 và tháng 8”, các nhà phân tích của Ngân hàng UBS ước tính và dự báo, giá dầu Brent sẽ giao dịch trong khoảng 85-90 USD/thùng trong những tháng tới. Về nhu cầu, tiêu thụ dầu toàn cầu có thể tăng 2,4 triệu thùng/ngày trong năm 2023.

Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết, kho dự trữ dầu thô của nước này đã giảm kỷ lục 17 triệu thùng vào tuần trước do xuất khẩu và dầu thô đầu vào của các nhà máy lọc dầu tăng mạnh vào giữa mùa du lịch hè.

Thông tin tác động tới giá dầu, dữ liệu công bố vào ngày 4/8 cho thấy nền kinh tế Mỹ duy trì tốc độ tăng trưởng việc làm vừa phải trong tháng 7/2023, nhưng mức tăng tiền lương vững mạnh và tỷ lệ thất nghiệp giảm cho thấy các điều kiện thị trường lao động tiếp tục thắt chặt. Ngoài ra, sự suy yếu trong hoạt động kinh doanh của Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) trở nên tồi tệ hơn so với dự báo vào tháng 7/2023 và Ngân hàng Trung ương Anh đã tăng lãi suất lên mức cao nhất trong 15 năm vào ngày 3/8 cũng khiến giới đầu tư thận trọng.

Kim loại: Giá vàng, đồng, nhôm, thiếc… tăng; quặng sắt và thép giảm

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tăng trong phiên cuối tuần sau khi số liệu việc làm của Mỹ yếu hơn dự kiến đẩy USD và lợi suất trái phiếu kho bạc giảm.

Cụ thể, gia vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.940,86 USD/ounce, nhưng vẫn giảm 0,9% trong cả tuần. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 12/2023 tăng 0,4% lên 1.976,1 USD/ounce.

Trong tháng 7/2023, số lượng việc làm lĩnh vực phi nông nghiệp của Mỹ tăng 187.000 việc, thấp hơn mức ước tính 200.000 việc theo thăm dò của Reuters. Sau số liệu việc làm, USD giảm 0,5% khiến vàng rẻ hơn cho người mua bằng các ngoại tệ khác.

Ở nhóm kim loại cơ bản, trên sàn giao dịch London (LME), giá thiếc kỳ hạn giao 3 tháng tăng 2,5% và tăng tới 3,8% trong thời gian giao dịch ở châu Á, lên mức 28.100 USD/tấn.

Lực lượng dân quân thuộc dân tộc thiểu số Myanmar đã tuyên bố cấm khai thác thiếc kể từ ngày 1/8/2023 tại các khu vực mà họ kiểm soát và Hiệp hội Thiếc quốc tế (ITA) xác nhận lệnh cấm đã có hiệu lực. Theo ITA, lệnh cấm này dự kiến làm giảm sản lượng luyện thiếc của Trung Quốc trong nửa cuối năm 2023, nhưng không đưa ra số liệu.

Nhà phân tích Tom Mulqueen của Citi cho biết, thiếc trên sàn LME hoạt động tốt nhất từ đầu năm đến nay với mức tăng 12%, nên khó có thể chứng kiến mức tăng mạnh hơn nữa.

Edward Gardner - chuyên gia kinh tế hàng hóa tại Capital Economics cho rằng, nhu cầu yếu ở Trung Quốc có thể kìm hãm giá kim loại trong những tháng tới.

Trên sàn LME, giá đồng tăng 1,3% lên 8.618 USD/tấn; nhôm tăng 0,9% lên 2.229 USD/tấn; kẽm tăng 0,8% lên 2.501 USD/tấn; chì tăng 0,3% lên 2.152 USD/tấn và nikel tăng 0,3% lên 21.630 USD/tấn.

Về nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn giảm do lo ngại mới về việc hạn chế sản xuất thép của Trung Quốc và triển vọng phục hồi đối với lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn, cùng tâm lý lo lắng do lũ lụt ở tỉnh sản xuất thép hàng đầu là Hà Bắc.

Cụ thể, trong phiên giao dịch ngày 4/8, trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, giá hợp đồng quặng sắt giao tháng 9/2023 được giao dịch nhiều nhất giảm 3% về mức 810,5 CNY (tương đương 112,7 USD)/tấn. Phiên trước đó, giá quặng sắt chạm mức 808,5 CNY/tấn – thấp nhất kể từ ngày 12/7/2023.

Trên Sàn giao dịch Singapore, hợp đồng quặng sắt cùng kỳ hạn giảm 4% về 99,7 USD/tấn, sau khi chạm mức 99,4 USD/tấn - thấp nhất từ ngày 29/6/2023.

Giá của các thành phần sản xuất thép khác cũng giảm, với tổn thất trên sàn Đại Liên mở rộng ở phiên chiều trong bối cảnh thị trường xôn xao về việc hạn chế sản lượng thép ở Trung Quốc – nước sản xuất thép lớn nhất thế giới.

Lũ lụt ở Hà Bắc do lượng mưa kỷ lục làm tăng thêm lo lắng của thị trường về sản xuất thép địa phương.

Trên Sàn giao dịch Thượng Hải, giá thép cây giảm 2,8%; thép cuộn giảm 1,8%; dây thép cuộn giảm 2,3% và thép không gỉ giảm 0,8%.

Giá than cốcthan luyện cốc lần lượt giảm 5% và 6,2%.

Nông sản: Ngô chấm dứt chuỗi 8 phiên giảm giá liên tục, lúa mì và đậu tương cũng tăng theo

Giá ngô trên Sàn giao dịch Chicago tăng trở lại sau 8 phiên giảm liên tiếp, sau khi một vụ tấn công bằng máy bay không người lái của Ukraine gần một cảng ngũ cốc của Nga làm dấy lên lo ngại về nguồn cung ngũ cốc ở Biển Đen.

Cụ thể, ngô CBOT giao tháng 9/2023 tăng 3-1/2 US cent lên 4,84-1/4 USD/bushel trong phiên 4/8. Hợp đồng được giao dịch nhiều nhất giao tháng 12 tăng 3-3/4 US cent lên 4,97-1/4 USD/bushel, nhưng cả tuần hợp đồng này giảm 6,18%.

Đậu tương tăng bởi thị trường lúa mì và dầu thô mạnh, lo sợ về gián đoạn nguồn cung sau vụ tấn công của Ukraine. Theo đó, hợp đồng đậu tương giao tháng 11/2023 tăng 8 US cent lên 13,33-1/4 USD/bushel.

Lúa mì cũng tăng kết thúc 7 phiên giảm. Cụ thể, Lúa mì mềm đỏ vụ đông giao tháng 9/2023 tăng 6 US cent lên 6,33 USD/bushel.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá cao su, đường cùng giảm, cà phê biến động trái chiều

Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2023 giảm 0,33 US cent (-1,4%) xuống 23,69 US cent/lb, trước đó giảm xuống mức thấp nhất kể từ giữa tháng 7/2023 tại mức 23,57 US cent/lb. Hợp đồng này đã giảm 1% trong tuần qua sau khi giảm 4,4% trong tuần trước nữa.

Đường trắng cùng kỳ hạn giảm 12,8 USD (-1,8%) xuống 686,2 USD/tấn.

Các đại lý lưu ý tin tức hạn chế về nguồn cung, đồng thời đường đang củng cố quanh mức 24 US cent/lb và giá đường trắng khá cao sẽ khuyến khích các nhà máy tinh luyện mua thêm đường thô để chế biến.

Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc cho biết, chỉ số giá đường giảm gần 4% trong tháng 7/2023, đánh dấu tháng giảm thứ hai liên tiếp do triển vọng nguồn cung thuận lợi tại Brazil và Ấn Độ.

Cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2023 đóng cửa giảm 3,4 US cent (-2,1%) xuống 1,6135 USD/lb, nhưng vẫn tăng 2,18% trong tuần. Cà phê robusta cùng kỳ hạn giảm 33 USD (-1,2%) xuống 2.612 USD/tấn.

Công ty Nghiên cứu và số liệu BMI, một đơn vị của Fitch Solutions, tiếp tục dự đoán cà phê arabica giao dịch ở mức trung bình 1,8 USD/bl trong năm nay, nhưng tăng dự báo giá trung bình năm 2024 lên 1,7 USD/lb từ mức 1,6 USD/lb. Việc điều chỉnh này phản ánh dự đoán sản lượng giảm, đặc biệt từ nước sản xuất hàng đầu Brazil.

Giá cao su Nhật Bản giảm theo xu hướng thị trường Thượng Hải và giảm tuần thứ 6 trong 8 tuần qua, do thị trường đợi thêm chi tiết về cam kết mới nhất của Bắc Kinh để thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc.

Cụ thể, hợp đồng cao su giao tháng 1/2024 trên sàn giao dịch Osaka giảm 0,4 JPY (-0,2%) về 197,5 JPY (1,39 USD)/kg. Hợp đồng này đã giảm 0,8% trong tuần và giảm 6,8% kể từ mức tăng trong tuần gần nhất vào ngày 9/6/2023.

Tại Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2023 giảm 80 CNY về 11.990 CNY (1.669,47 USD)/tấn.

Theo thăm dò của Reuters, kinh tế Nhật Bản có thể tăng 3,1% trong quý II/2023, đánh dấu quý thứ 3 tăng liên tiếp, điều này hạn chế đà giảm của cao su.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn)

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn)
Tin bài liên quan