TS. Đào Minh Tú - Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước.

TS. Đào Minh Tú - Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước.

Chủ động, linh hoạt ứng phó với các thách thức chưa có tiền lệ

(ĐTCK) “Mục tiêu xuyên suốt trong điều hành chính sách tiền tệ là kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng, phối hợp với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế…”.

Đó là chia sẻ của TS. Đào Minh Tú - Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước với Đặc san Toàn cảnh Ngân hàng.

Trong năm qua, chính sách tiền tệ (CSTT) phải thay đổi nhanh chóng để thích ứng với các biến động kinh tế phức tạp, khó lường, chưa có tiền lệ trong và ngoài nước. Xin Phó Thống đốc cho biết các trọng tâm mà ngành Ngân hàng cần tập trung điều hành trong thời gian tới để vừa đáp ứng yêu cầu ổn định vĩ mô, vừa hỗ trợ tăng trưởng hợp lý?

Đúng là điều hành CSTT trong bối cảnh kinh tế trong nước, quốc tế có nhiều biến động phức tạp, khó lường, chưa có tiền lệ và Việt Nam là quốc gia có mức độ hội nhập kinh tế tương đối cao là một thách thức rất lớn, có thời điểm là bất khả thi và phát sinh xung đột trong quá trình thực thi chính sách.

Trước những thách thức này, với kinh nghiệm trong nhiều năm qua, với sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong năm 2022, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nỗ lực điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, sử dụng đồng bộ các công cụ phù hợp với diễn biến thị trường trong nước và quốc tế, hướng tới thực hiện hài hòa các mục tiêu kinh tế vĩ mô với quan điểm xuyên suốt là hỗ trợ phục hồi kinh tế nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát và bất ổn kinh tế vĩ mô.

Tại từng thời điểm, điều hành CSTT có những mục tiêu ưu tiên nhất định phù hợp với diễn biến cụ thể của thị trường. Qua đó, đã đóng góp tích cực vào kết quả chung của nước ta trong năm 2022 với tăng trưởng kinh tế trên 8%, lạm phát được kiểm soát thấp hơn mục tiêu đề ra, kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế được giữ vững.

Năm 2023 tiếp tục là một năm có nhiều thách thức trong điều hành CSTT do tác động từ diễn biến phức tạp, khó lường của kinh tế thế giới và trong nước. Kinh tế thế giới dự báo tăng trưởng chậm lại với nhiều bất trắc, lạm phát dù đã có dấu hiệu qua đỉnh nhưng vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao tại nhiều nước, nhiều ngân hàng trung ương (NHTW) vẫn duy trì lộ trình tăng lãi suất, giá hàng hóa thế giới tiềm ẩn nhiều nguy cơ biến động mạnh. Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế trong nước, đặc biệt là các ngành sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo bị tác động tiêu cực từ sức cầu thế giới suy giảm; áp lực lạm phát vẫn còn cao ngay từ đầu năm; các hoạt động đầu tư, tiêu dùng cũng gặp nhiều khó khăn.

Trước bối cảnh đó, NHNN tiếp tục kiên định mục tiêu xuyên suốt trong điều hành CSTT thời gian qua là kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng, phối hợp với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý. Cụ thể:

Chúng tôi tiếp tục theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường trong và ngoài nước để điều hành chắc chắn, chủ động, linh hoạt các công cụ CSTT nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối, kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng theo định hướng đề ra; điều hành nghiệp vụ thị trường mở phù hợp với diễn biến thị trường, hỗ trợ ổn định thị trường tiền tệ; tái cấp vốn đối với tổ chức tín dụng để hỗ trợ thanh khoản, cho vay các chương trình đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hỗ trợ quá trình cơ cấu lại tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu. Điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu CSTT; khuyến khích các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để ổn định mặt bằng lãi suất cho vay.

Điều hành tỷ giá linh hoạt nhằm ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Điều hành tăng trưởng khối lượng và cơ cấu tín dụng hợp lý, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.

Tiếp tục đẩy mạnh dòng vốn cho các lĩnh vực ưu tiên.

Tiếp tục đẩy mạnh dòng vốn cho các lĩnh vực ưu tiên.

Một nội dung quan trọng phải thực hiện thường xuyên đó là rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, ban hành mới các cơ chế chính sách và cải cách thủ tục hành chính có liên quan nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận tín dụng, dịch vụ ngân hàng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của NHNN và tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, hiệu quả.

Mặt khác, chúng tôi cũng tiếp tục yêu cầu các tổ chức tín dụng tập trung nâng cao năng lực quản trị, điều hành, chú trọng quản trị theo thông lệ quốc tế; tăng cường giám sát, tuân thủ các quy định, chuẩn mực trong hoạt động ngân hàng. Quyết liệt thực hiện các giải pháp tái cơ cấu, xử lý nợ xấu, chuyển đổi số, phát triển thanh toán không dùng tiền mặt… nhằm thúc đẩy hệ thống các tổ chức tín dụng hoạt động lành mạnh, an toàn, hiệu quả và tăng nhanh chu chuyển vốn trong nền kinh tế.

Bên cạnh các nhiệm vụ trên thì việc tăng cường hoạt động truyền thông chuyên nghiệp, hiệu quả, nâng cao tính minh bạch thông tin, đáp ứng yêu cầu đối với hoạt động cung cấp thông tin của NHNN và thực hiện các cam kết quốc tế là một giải pháp quan trọng; bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN chủ động kịp thời thông tin, truyền thông về các giải pháp điều hành của NHNN. Tăng cường hợp tác trong hoạt động truyền thông, đẩy mạnh xây dựng triển khai các chương trình phổ biến kiến thức tài chính ngân hàng góp phần nâng cao nhận thức, hiểu biết của công chúng.

Nhìn vào kết quả hoạt động ngân hàng trong quý I vừa qua có thể thấy sức cầu của nền kinh tế yếu do tác động cả từ nguyên nhân bên ngoài và bên trong đã ảnh hưởng lớn tới hoạt động của ngành ngân hàng. Xin Phó Thống đốc chia sẻ thêm về các chính sách, giải pháp trong điều hành của NHNN, trong đó có điều hành tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh tế từ đầu năm đến nay, một số định hướng trong thời gian tới?

Qua số liệu thống kê kinh tế quý I/2023, qua nhìn nhận đánh giá toàn diện, khách quan, nền kinh tế của Việt Nam đang đối diện nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp phải dừng hoạt động hoặc phải giảm bớt quy mô kinh doanh, ảnh hưởng đến công ăn việc làm, đời sống của người lao động. Nguyên nhân chủ yếu là do tác động của kinh tế, tình hình địa chính trị thế giới ảnh hưởng đến vấn đề dòng vốn, dòng hàng hóa, lưu chuyển hàng hóa trên thế giới... Thị trường bất động sản gặp nhiều khó khăn. Thị trường vốn (chứng khoán, trái phiếu) đang giảm sút cũng đều là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng tín dụng.

Những diễn biến phức tạp, khó lường, chưa có tiền lệ trong năm 2022 và quý I/2023 ở cả trong nước và thế giới đã đặt ra nhiều sức ép và thách thức đối với hoạt động tín dụng của ngành ngân hàng. Một mặt, cầu tín dụng của nền kinh tế giảm do 3 động lực tăng trưởng suy yếu (gồm cầu đầu tư phục vụ sản xuất - kinh doanh, cầu tiêu dùng giảm và giải ngân đầu tư công chậm), ảnh hưởng tới khả năng hấp thụ vốn tín dụng của nền kinh tế. Ở một khía cạnh khác, trong bối cảnh thị trường vốn (thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán) chưa thực sự phát huy hiệu quả, chưa phát triển tương xứng với vai trò cung ứng vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế, thì áp lực vốn đối với tín dụng ngân hàng tiếp tục ở mức cao, nhất là vốn cho lĩnh vực bất động sản, đầu tư hạ tầng...

Đến giữa tháng 5, dư nợ toàn hệ thống đạt gần 12,3 triệu tỷ đồng, tăng 2,72% so với cuối tháng 12/2022, tăng 9,32% so với cùng kỳ năm 2022. Việc điều hành tín dụng đặt ra cho ngành ngân hàng nhiều thách thức khi đồng thời phải đáp ứng vốn cho sản xuất, kinh doanh, phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, nhưng phải đảm bảo an toàn hoạt động cho hệ thống tổ chức tín dụng trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn, dẫn đến không có khả năng trả nợ đúng hạn và có nguy cơ cao chuyển thành nợ xấu, khó có thể tiếp tục tiếp cận vốn vay ngân hàng để duy trì và khôi phục sản xuất - kinh doanh.

Nhận diện rõ các khó khăn, thách thức nêu trên, ngay từ đầu năm 2023, NHNN đã đề ra các mục tiêu, định hướng, giải pháp trọng tâm trong hoạt động của ngành, trong đó có công tác tín dụng. Trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023 khoảng 6,5% và lạm phát khoảng 4,5% được Quốc hội, Chính phủ đặt ra, NHNN định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2023 khoảng 14 - 15%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế, hướng vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, tiếp tục kiểm soát rủi ro tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Đồng thời, NHNN đã điều hành CSTT rất linh hoạt và sử dụng tối đa công cụ, dư địa của CSTT. Cụ thể:

Thứ nhất, đảm bảo thanh khoản cho nền kinh tế, cho từng tổ chức tín dụng và thanh khoản cho toàn hệ thống ngân hàng.

Thứ hai, đến nay đã điều chỉnh giảm 3 lần lãi suất điều hành. Đây vừa là công cụ điều hành phát đi tín hiệu giảm lãi suất cho thị trường, vừa là cơ sở, điều kiện vận động các ngân hàng thương mại giảm lãi suất huy động và cho vay, tạo điều kiện cho việc mở rộng đầu tư, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Thứ ba, triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ thị trường bất động sản theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ như thông tin rõ quan điểm NHNN chưa bao giờ siết chặt tín dụng bất động sản mà chỉ kiểm soát chặt chẽ rủi ro đối với một số lĩnh vực bất động sản đầu cơ; chỉ đạo các tổ chức tín dụng triển khai gói tín dụng 120.000 tỷ đồng cho xây dựng và thuê mua nhà ở xã hội, công nhân và xây dựng chung cư cũ.

Thứ tư, ngay khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 08/4/2023, Nghị quyết 59/NQ-CP ngày 23/4/2023, NHNN đã kịp thời ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn, tương tự như đã triển khai trong giai đoạn dịch Covid-19. Đây là chính sách có đối tượng điều chỉnh rộng khắp mọi lĩnh vực sản xuất - kinh doanh và tiêu dùng phục vụ đời sống, được Đảng, Nhà nước, Chính phủ quan tâm, chỉ đạo quyết liệt, có tác động trực tiếp và tác dụng hỗ trợ ngay nhằm giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp, người dân, được xã hội, doanh nghiệp, người vay vốn phấn khởi đón nhận.

Thứ năm, phối hợp với Bộ Tài chính tháo gỡ khó khăn cho thị trường trái phiếu theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trong đó NHNN đã ban hành Thông tư 03/2023/TT-NHNN ngày 23/04/2023, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức tín dụng trong mua - bán trái phiếu doanh nghiệp nhằm góp phần gia tăng thanh khoản, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong tình hình khó khăn hiện nay theo chủ trương của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng: Tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng theo chủ trương của Chính phủ; xem xét ưu tiên cấp tín dụng theo Danh mục phân loại xanh, cho vay đáp ứng nhu cầu nhà ở của người dân, các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án nhà ở thương mại với giá rẻ; Kiểm soát tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; Tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận tín dụng, phát triển đa dạng sản phẩm tín dụng ngân hàng phù hợp từng loại hình, nhu cầu sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp, trong đó có đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, các mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao, tham gia chuỗi giá trị, liên kết; Đẩy mạnh triển khai các chương trình tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với các ngành, lĩnh vực; Triển khai với nỗ lực cao nhất nhiệm vụ được giao tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, các Chương trình mục tiêu quốc gia.

Việc tăng lãi suất quá nhanh ở nhiều quốc gia đã tác động tiêu cực tới thị trường tài chính, bất động sản, lao động. Đặc biệt, đã có một số ngân hàng tại Mỹ phá sản do phục vụ lĩnh vực kinh doanh rủi ro, hoặc đầu tư quá nhiều vào trái phiếu giai đoạn trước… Xin Phó Thống đốc cho biết định hướng xử lý làm giảm tác động của quá trình tăng lãi suất nhanh giai đoạn vừa qua tới hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động của các ngân hàng thương mại nói riêng trong năm 2023 và dài hạn?

Thời gian qua, nhiều NHTW các nước trên thế giới tiếp tục thu hẹp việc nới lỏng CSTT, điều chỉnh tăng lãi suất và neo ở mức cao. Tuy nhiên, từ ngày 10/3 đến nay, vụ việc một số ngân hàng đóng cửa hoặc gặp khó khăn tại Mỹ, châu Âu (Silicon Valley, Signature, Silvergate, First Republic, Credit Suisse, Deutsche Bank) khiến triển vọng toàn cầu thêm khó lường, rủi ro suy thoái kinh tế gia tăng đã khiến các NHTW lớn chậm lại đà tăng lãi suất.

Đối với thị trường trong nước, sự kiện đóng cửa một số ngân hàng tại Mỹ tác động không lớn. Các ngân hàng Việt Nam không có quan hệ kinh doanh với các ngân hàng này nên không có hiện tượng dẫn truyền rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản; các thị trường tiền tệ, ngoại hối hoạt động bình thường, lãi suất, tỷ giá trong nước không có biến động mạnh. Hoạt động trên thị trường ngoại tệ tương đối ổn định, thanh khoản thị trường thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ.

Từ tháng 1/2023, NHNN đã mua được ngoại tệ trở lại từ các tổ chức tín dụng bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước đến nay đã kết dư được gần 6,5 tỷ USD. Ngày 11/5/2023, tỷ giá trung tâm ở mức 23.632 VND/USD, tăng khoảng 0,08% so với cuối năm 2022; tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng khoảng 23.468 VND/USD, giảm 0,45% so với cuối năm 2022; tỷ giá niêm yết mua/bán của Vietcombank ở mức 23.300/23.640 VND/USD, giảm 0,47%/0,38% so với cuối năm 2022.

Vụ việc một số ngân hàng đóng cửa, khó khăn tại Mỹ, châu Âu cho thấy quản trị rủi ro thanh khoản là vô cùng quan trọng. Do đó quan điểm của NHNN là tăng cường quản lý các tỷ lệ an toàn thanh khoản (hệ số sử dụng vốn - LDR, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn). Sự thận trọng trong việc sử dụng chính sách tín dụng để tháo gỡ khó khăn cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản (không dùng vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn) thời gian qua là phù hợp. Bên cạnh đó, việc đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền (cả tiền gửi của cá nhân và tổ chức) là nền tảng vững chắc để tạo lập niềm tin, tránh rủi ro lan truyền trong hệ thống ngân hàng.

Thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi sát diễn biến vĩ mô, thị trường, các vụ việc liên quan đến khó khăn, đổ vỡ một số ngân hàng quốc tế để điều hành chắc chắn, chủ động, linh hoạt các công cụ CSTT nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối, kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng theo định hướng đề ra. Điều hành nghiệp vụ thị trường mở phù hợp với diễn biến thị trường, hỗ trợ ổn định thị trường tiền tệ. Điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu CSTT. Chỉ đạo tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn tín dụng nhưng không hạ chuẩn tín dụng nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống.

Sau mỗi giai đoạn kinh tế khó khăn, ngành ngân hàng luôn phải ứng phó với tình trạng nợ xấu tăng cao và diễn biến này thường có tính chu kỳ. Ngành ngân hàng đã làm gì để hạn chế nợ xấu mới tăng cao, không để nợ xấu thành “cục máu đông” trong nền kinh tế như đã từng xảy ra cách đây 10 năm?

Nợ xấu luôn tồn tại song song với hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng và là điều không tránh khỏi trong quá trình phát triển kinh tế ở bất kỳ quốc gia nào cũng như ở Việt Nam. Thời gian qua, ngành ngân hàng luôn nỗ lực kiểm soát nợ xấu ở mức an toàn, hợp lý. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, có nhiều nguyên nhân khiến nợ xấu ngân hàng có nguy cơ tăng trở lại, thậm chí đến nay tính hiện hữu đã khá đậm nét.

Nợ xấu được dồn tích một phần từ tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 trong 2 năm 2020 và 2021; hiện nay, tình hình kinh tế thế giới nhiều tác động không thuận lợi đến nước ta, tình hình kinh tế nói chung và sức khỏe doanh nghiệp nói riêng đã và đang bộc lộ khó khăn, tác động trực tiếp tới chất lượng tín dụng, nguy cơ nợ xấu tăng lên. Trong khi đó thị trường mua bán nợ tại Việt Nam chưa phát triển. Do đó, thời gian tới cần nhiều giải pháp đồng bộ để giải bài toán nợ xấu, hướng tới sự phát triển an toàn, lành mạnh của các tổ chức tín dụng, khơi thông nguồn vốn cho nền kinh tế. Để kiểm soát nợ xấu, NHNN đã và đang tiếp tục thực hiện một số giải pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất, triển khai Quyết định 689 ngày 08/6/2022 phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025” của Thủ tướng Chính phủ, ngày 02/8/2022, NHNN đã ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng (bằng Quyết định số 1382).

Theo đó, NHNN tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý hỗ trợ công tác cơ cấu lại, xử lý nợ xấu; trong đó có việc rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng để luật hóa các nội dung về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu trên cơ sở kế thừa các quy định của Nghị quyết số 42 và sửa đổi, bổ sung một số nội dung gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai Nghị quyết này. Đồng thời, tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức tín dụng xây dựng và triển khai mạnh mẽ Phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025, trong đó có các giải pháp xử lý tồn tại về sở hữu cổ phần, ngăn ngừa sở hữu chéo, tiếp tục kiểm soát và hạn chế nợ xấu mới phát sinh, nâng cao chất lượng tín dụng…

Thứ hai, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư, cấp tín dụng, chất lượng tín dụng, tình hình xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng nhằm phòng ngừa rủi ro nợ xấu theo Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025.

Thứ ba, tiếp tục chỉ đạo, giám sát các tổ chức tín dụng kiểm soát tăng trưởng và nâng cao chất lượng tín dụng, đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu, bao gồm cả những khoản nợ xấu đã được sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý và theo dõi ngoại bảng; tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) để thống nhất áp dụng các biện pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc xử lý các khoản nợ xấu và tài sản bảo đảm của các khoản nợ đã bán cho VAMC; chủ động đề nghị chính quyền địa phương và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hỗ trợ quá trình xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của nợ xấu; tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống các tổ chức tín dụng; công bố thông tin về hoạt động của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của tổ chức tín dụng.

Ngoài các giải pháp kiên quyết và mạnh mẽ từ phía NHNN thì yêu cầu các tổ chức tín dụng phải nâng cao chuẩn mực quản trị, hoạt động của mình cũng rất cấp thiết. Trước các biến động rất mạnh của thị trường tài chính, NHNN đã tính tới việc tiếp tục nâng chuẩn quản trị bắt buộc với các ngân hàng thời gian tới hay chưa, thưa ông?

Thực tế cho thấy, việc NHNN sớm yêu cầu các tổ chức tín dụng phải đáp ứng chuẩn mực Basel II đã đạt được kết quả quan trọng là các ngân hàng thương mại cơ bản duy trì được khả năng tài chính tốt trong giai đoạn đại dịch Covid-19 vừa qua và trong bối cảnh thị trường tài chính quốc tế có nhiều biến động hiện nay.

Khi các tổ chức tín dụng đáp ứng cả 3 trụ cột Basel II và sớm áp dụng Basel III sẽ giúp ngân hàng nâng cao khẩu vị rủi ro, quản trị ngày càng tốt, đảm bảo sẵn sàng ứng phó với các cú sốc của thị trường. Không những vậy còn cải thiện xếp hạng tín nhiệm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Hiện nay, về cơ bản các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã triển khai Basel II (phương pháp tiêu chuẩn) theo quy định của NHNN tại Thông tư 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Yêu cầu nâng chuẩn quản trị là nhiệm vụ NHNN đã đặt ra cho hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam trong Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng năm 2030.

Trong đó nêu rõ, đến năm 2025 “tất cả các ngân hàng thương mại áp dụng Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn, triển khai thí điểm áp dụng Basel II theo phương pháp nâng cao tại ngân hàng thương mại Nhà nước nắm cổ phần chi phối và ngân hàng thương mại cổ phần có chất lượng quản trị tốt đã hoàn thành áp dụng Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn”.

Tại Quyết định số 689 phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025”, một trong những giải pháp đặt ra là “Nghiên cứu, có giải pháp phù hợp để khuyến khích các ngân hàng thực hiện Basel II theo phương pháp nâng cao, hướng đến triển khai Basel III khi tổ chức tín dụng có đủ điều kiện về tài chính, nhân lực”.

Hiện nay, NHNN chưa có lộ trình dự kiến quy định bắt buộc phải áp dụng tiêu chuẩn Basel III, nhưng một số ngân hàng thương mại cũng đã tiên phong trong việc triển khai Basel III. Đây là điều NHNN khuyến khích vì việc tuân thủ các chuẩn mực Basel có ý nghĩa quan trọng với các ngân hàng trong việc tăng cường năng lực quản trị rủi ro, giúp các ngân hàng cải thiện xếp hạng tín nhiệm và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Đi cùng với tăng cường năng lực quản trị thì việc tăng nhanh năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là vốn điều lệ, vốn tự có, tăng nhanh quy mô về tài sản và mạng lưới hệ thống đi cùng chất lượng hoạt động cũng là những nội dung mà chúng tôi sẽ tiếp tục đặt ra cho các ngân hàng thương mại để có kế hoạch, lộ trình thực hiện.

Tin bài liên quan