Khối ngân hàng thương mại nhà nước tăng trưởng cao, nợ xấu tăng

Chính phủ báo cáo Quốc hội "sức khỏe" nhóm ngân hàng Big 4, vốn đầu tư Nhà nước tiếp tục được bảo toàn và sinh lời.
Đến cuối năm 2022, Vietinbank đã nộp ngân sách 6.520 tỷ đồng.

Đến cuối năm 2022, Vietinbank đã nộp ngân sách 6.520 tỷ đồng.

Năm 2022, ngành ngân hàng nói chung và khối ngân hàng thương mại NHTM Nhà nước đã có tăng trưởng cao hơn cùng kỳ năm trước sau khi nền kinh tế đã bắt đầu phục hồi qua thời gian chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19.

Báo cáo về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc năm 2022 vừa được Chính phủ gửi tới Quốc hội.

Khối NHTM nhà nước bao gồm: Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (Vietinbank); Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV); Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank); Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank).

Doanh thu và lợi nhuận đều tăng

Tính đến 31/12/2022, theo báo cáo, tổng nợ phải trả và vốn chủ sở hữu (tổng nguồn vốn) của khối NHTM Nhà nước đạt 7.617.693 tỷ đồng, tăng 1.213.411 tỷ đồng (19%) so với cuối năm 2021.

Tiền gửi của khách hàng: đạt 5.590.177 tỷ đồng, tăng 370.103 tỷ đồng (7%) so với cuối năm 2021. Phát hành giấy tờ có giá: đạt 352.223 tỷ đồng, tăng 118.095 tỷ đồng (50%) so cuối năm 2021.

Nguồn vốn huy động thị trường II: đạt 651.664 tỷ đồng, tăng 301.617 tỷ đồng (86%) so với cuối năm 2021.

Đến cuối năm 2022, tổng dư nợ cho vay đạt: 5.257.307 tỷ đồng, tăng 609.633 tỷ đồng (13%) so với cuối năm 2021. Chất lượng tín dụng được đảm bảo, nợ xấu năm 2022 là 78.240 tỷ đồng, chiếm 1,33% so với tổng dư nợ, tăng 562.055 tỷ đồng (tăng 0,14%) so cuối năm 2021.

Cũng tính đến cuối năm 2022, tổng số dư các khoản chứng khoán kinh doanh đầu tư của khối NHTM Nhà nước là 830.749 tỷ đồng (đã tính dự phòng rủi ro), tăng 231.650 tỷ đồng (39%) so với cuối năm 2021.

Đánh giá về chất lượng tài sản, báo cáo nêu, về nợ xấu cho vay, tổng nợ xấu năm 2022 là 78.240 tỷ đồng, tăng 14.753 tỷ đồng so với năm 2021 tương ứng với tỷ lệ tăng 23,24%. Tỷ lệ nợ xấu năm 2022 là 1,33% (tăng 11% so với năm 2021).

Chính phủ đánh giá, trong năm 2022, các NHTM Nhà nước đạt kết quả khá tích cực trong xử lý nợ xấu khi triển khai quyết liệt phương án xử lý nợ xấu, thường xuyên rà soát, cập nhật, đánh giá tính khả thi của phương án xử lý nợ xấu.

Cụ thể, tổng số nợ xấu của các NHTM Nhà nước được xử lý trong năm 2022 thông qua các hình thức: Khách hàng trả nợ, bán phát mại tài sản; trích lập dự phòng đạt 119.888 tỷ đồng, tăng 60.381 tỷ đồng (101%) so cuối năm 2021; trong đó, sử dụng dự phòng rủi ro 62.599 tỷ đồng, tăng 23.686 tỷ đồng (61%) so cuối năm 2021.

Về kết quả kinh doanh, theo báo cáo, tổng doanh thu của khối này đạt 538.372 tỷ đồng, tăng 95.835 tỷ đồng (22%) so với năm 2021.

Tổng chi phí là 436.723 tỷ đồng, tăng 64.717 tỷ đồng (17%) so với năm 2021. Lợi nhuận trước thuế đạt 101.648 tỷ đồng, tăng 31.118 tỷ đồng (44%) so với cùng kỳ năm 2021. Lợi nhuận sau thuế: đạt 81.510 tỷ đồng, tăng 24.875 tỷ đồng (44%) so với cùng kỳ năm 2021.

Hiệu quả sử dụng vốn, theo báo cáo, tỷ suất lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu (ROE) hợp nhất thời điểm cuối năm 2022: đạt 18,74%, tăng 3,24% so với cùng kỳ năm 2021. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản (ROA) hợp nhất thời điểm cuối năm 2022: đạt 1,07%, tăng 0,19% so với cùng kỳ năm 2021.

Đến cuối năm 2022, các NHTM nhà nước đã nộp vào NSNN là 22.516,4 tỷ đồng, trong đó Vietinbank nộp 6.520 tỷ đồng; BIDV 4.891 tỷ đồng; Vietcombank nộp 6.046.3 tỷ đồng và Agribank nộp 13.062,27 tỷ đồng.

Vốn đầu tư Nhà nước tiếp tục được bảo toàn và sinh lời. Vốn chủ sở hữu đạt 435.002 tỷ đồng, tăng 69.725 tỷ đồng (19%) so với cuối năm 2021, trong đó vốn điều lệ đạt 180.415 tỷ đồng, tăng 10.355 tỷ đồng (6%) so cuối năm 2021.

Báo cáo cũng thông tin về các khoản nợ phải thu (ngoài các khoản phải thu từ hoạt động tín dụng) là 131.170 tỷ đồng, tăng 60.195 tỷ đồng so với năm 2021.

Trong đó Vietinbank có các khoản nợ phải thu là 65.993 tỷ đồng, tăng 31.760 tỷ đồng so với cuối năm 2021 (tăng chủ yếu các khoản phải thu bên ngoài); BIDV có các khoản phải thu là 22.768 tỷ đồng, tăng 14.912 tỷ đồng so với năm 2021; Vietcombank có các khoản nợ phải thu là 32.438 tỷ đồng, tăng 11.320 tỷ đồng (53,6%) so với năm 2021; Agribank có các khoản nợ phải thu là 9.971 tỷ đồng, tăng 2.203 tỷ đồng so cuối năm 2021.

BIDV có 3 dự án đầu tư tại nước ngoài

Tình hình đầu tư vốn và thoái vốn ngoài ngành cũng được Chính phủ cập nhật đến hết năm 2022.

Đối với Vietinbank, đến cuối năm 2022, tổng số dư đầu tư góp vốn, mua cổ phần tại các công ty con, công ty liên kết, đơn vị nhận vốn khác của VietinBank đạt 4.844 tỷ đồng.

Về đầu tư vốn ra nước ngoài, Vietinbank có khoản đầu tư vào Ngân hàng TNHH Công thương Việt Nam tại Lào (Vietinbank Lào) với tổng vốn đầu tư là 50 triệu USD. Năm 2022, dự án có lợi nhuận vượt kế hoạch với ROE là 5,42%. Trong năm dự án không thực hiện chuyển lợi nhuận về nước do đang làm thủ tục tăng vốn điều lệ từ 50 triệu USD lên 62 triệu USD để đạt mức vốn pháp định theo pháp luật Lào. Lũy kế đến hết năm 2022, số lợi nhuận chuyển về nước của Vietinbank Lào là 13,122 triệu USD.

Năm 2022, VietinBank tiếp tục thực hiện thoái vốn đối với các khoản đầu tư ngoài ngành theo đề án cơ cấu lại doanh nghiệp: thoái vốn tại Công ty Vietinbank Leasing; rút giảm vốn tại Công ty Quản lý quỹ (QLQ); thoái vốn tại Công ty Cảng Hải Phòng/Cảng Sài Gòn (PHP/SGP); rút giảm vốn tại Công ty cổ phần chứng khoán Vietinbank (CTS).

Với BIDV, đến cuối năm 2022, tổng giá trị các khoản đầu tư vào công ty con, công ty liên kết, công ty liên doanh và đầu tư tài chính của BIDV là 8.132,87 tỷ đồng, chiếm 15,1% vốn điều lệ và Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, giữ nguyên so với năm 2021. Tổng cổ tức nhận được từ các công ty con năm 2022 (cổ tức năm 2021) là 158,034 tỷ đồng; cổ tức nhận được từ công ty liên kết năm 2022 là 110,79 tỷ đồng; cổ tức từ các khoản đầu tư tài chính là 35,174 tỷ đồng.

BIDV hiện có 3 dự án đầu tư tại nước ngoài gồm: Ngân hàng liên doanh Lào-Việt (LVB) tại Lào (BIDV góp vốn bằng tiền mặt với tổng giá trị tương đương 63.666,428 nghìn USD), BIDV - Chi nhánh Yangon tại Myanmar (BIDV đã thực hiện góp vốn bằng tiền mặt với tổng giá trị là 85 triệu USD) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Campuchia (BIDC) tại Campuchia (BIDV đã thực hiện góp vốn bằng tiền mặt với tổng giá trị là 99.096,489 nghìn USD).

Đánh giá việc tuân thủ các quy định của pháp luật đối với việc đầu tư ra ngoài doanh nghiệp, báo cáo nêu, giới hạn các chỉ tiêu an toàn của BIDV đảm bảo theo quy định của NHNN, còn duy nhất chỉ tiêu “giới hạn góp vốn mua cổ phần vào 1 doanh nghiệp” vượt 11%.

Đối với Vietcombank, theo báo cáo, đến cuối năm 2022, tổng giá trị vốn đầu tư của Vietcombank là 6.681,19 tỷ đồng, chiếm 12,20% Vốn điều lệ và Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật về giới hạn góp vốn mua cổ phần.

Trong đó, Vietcombank đầu tư vào 10 công ty con, công ty liên kết, gồm 7 công ty hoạt động ở trong nước và 3 công ty hoạt động tại nước ngoài. Kết quả hoạt động kinh doanh của các công ty đều ổn định.

Tổng thu nhập từ hoạt động đầu tư trong năm 2022 là 580,17 tỷ đồng gồm thu nhập từ cổ tức bằng tiền mặt là 163,80 tỷ đồng; thu nhập từ cổ tức bằng cổ phiếu là 346,79 tỷ đồng; thu nhập từ lãi thoái vốn là 69,58 tỷ đồng.

Trong năm 2022, Vietcombank đã thực hiện tăng thêm vốn đầu tư tại Công ty TNHH chứng khoán Vietcombank; thoái toàn bộ vốn đầu tư tại Quỹ bảo lãnh tín dụng nhỏ và vừa TP.HCM ; thoái một phần vốn đầu tư tại TCT Hàng không Việt Nam. Việc thực hiện tăng giảm vốn đầu tư tại các đơn vị theo đúng kế hoạch đã được phê duyệt.

Với Agribank, đến 31/12/2022, tổng giá trị đầu tư vào doanh nghiệp khác của Agribank đạt 2.268,2 tỷ đồng, giảm 118 tỷ đồng so cuối năm 2021, trong đó gồm 5 công ty con và 3 khoản đầu tư vào các doanh nghiệp khác . Ngoài ra còn 2 khoản đầu tư đang trong quá trình xử lý tổn thất (Công ty CTTC II-ALC II và CTCP Vận tải Vinaconex - VCV). Trong năm 2022, Agribank không đầu tư thêm vốn cho các đơn vị trực thuộc và đối tác bên ngoài. Tỷ lệ góp vốn, mua cổ phần của Agribank vào các doanh nghiệp khác đảm bảo tuân thủ theo quy định.

Trong năm 2022, các công ty con của Agribank đều kinh doanh có lãi. Agribank nhận được lợi nhuận, cổ tức từ các đơn vị có vốn đầu tư: 1,2 tỷ đồng lợi nhuận còn lại năm 2021 của AMC; 1,8 tỷ đồng từ quỹ đầu tư phát triển của ASC; 43,6 tỷ đồng cổ tức năm 2020 của CTCP Thanh toán quốc gia Việt Nam (Napas); cổ tức năm 2020, 2021 bằng cổ phiếu của CTCP Tập đoàn công nghệ CMC (CMC) là 258.229 cổ phiếu (tỷ lệ 9% năm 2020 và 38% năm 2021); cổ tức năm 2021 bằng cổ phiếu của ABIC là 4.446.000 cổ phiếu (tỷ lệ 20%).

Agribank đã cơ bản hoàn thành chuyển nhượng số cổ phần tại CMC. Tổng số tiền Agribank thu được từ chuyển nhượng cổ phần tại CMC là 244,6 tỷ đồng/156 tỷ đồng vốn đầu tư, theo báo cáo.

Tin bài liên quan