Ảnh: Dũng Minh

Ảnh: Dũng Minh

Cần sớm gỡ nút thắt cho vay nông nghiệp công nghệ cao

0:00 / 0:00
0:00

(ĐTCK) Đó là chia sẻ của ông Phạm Toàn Vượng, Phó tổng giám đốc Agribank với Báo Đầu tư Chứng khoán xung quanh câu chuyện về tín dụng lĩnh vực này.

Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp đã và đang mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho cả người dân và doanh nghiệp, giữ vị trí chủ lực trong đầu tư phát triển “Tam nông”. Agribank đóng vai trò như thế nào đối với cho vay hỗ trợ nông nghiệp theo hướng an toàn, ứng dụng công nghệ cao, phát triển bền vững?

Luôn xác định cho vay nông nghiệp, nông thôn, trong đó có nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, là lĩnh vực ưu tiên và dành nhiều ưu đãi cho khách hàng thuộc lĩnh vực này, cho nên Agribank đã giảm lãi suất cho vay từ 0,5-1,5%/năm cho khách hàng tham gia vào chuỗi sản xuất nông nghiệp sạch tùy từng trường hợp cụ thể. Khách hàng vay vốn theo chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch của Agribank được miễn phí chuyển tiền trong hệ thống, giảm 50% theo mức phí quy định hiện hành của Ngân hàng đối với chuyển tiền ngoài hệ thống Agribank...

Ông Phạm Toàn Vượng, Phó tổng giám đốc Agribank

Ông Phạm Toàn Vượng, Phó tổng giám đốc Agribank

Bên cạnh đó, Agribank không ngừng nỗ lực cải tiến quy trình, phương pháp cho vay, tiết giảm chi phí để mở rộng đầu tư tín dụng giúp khách hàng tiếp cận vốn vay một cách nhanh chóng. Agribank đồng thời triển khai các giải pháp để rút gọn thời gian thẩm định dự án, phương án vay vốn và nâng định mức cho vay cho khách hàng để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình tiếp cận vốn vay của Ngân hàng.

Cùng với đó, Agribank giảm dần lãi suất cho vay và cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước; tăng cường phối hợp chặt chẽ với các chính quyền địa phương nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho khách hàng như về hạn mức vốn vay, tài sản thế chấp...

Để minh chứng cho những thông tin trên, chúng ta sẽ nhìn vào số liệu. Cụ thể, từ tháng 11/2016, Agribank triển khai chương trình tín dụng ưu đãi quy mô tối thiểu 50.000 tỷ đồng phục vụ sản xuất nông nghiệp sạch. Tính đến 31/10/2020, doanh số cho vay từ khi bắt đầu triển khai chương trình của Agribank đã đạt trên 26.000 tỷ đồng, dư nợ đạt trên 5.000 tỷ đồng với gần 4.000 khách hàng (trong đó có gần 100 khách hàng doanh nghiệp và 3.900 khách hàng là cá nhân). Có thể kể đến một số dự án lớn Agribank đã đầu tư như Dự án nhà máy chế biến rau quả thực phẩm, nông sản xuất khẩu tại An Giang, Vĩnh Long (doanh số cho vay hơn 4.100 tỷ đồng); các dự án nuôi tôm giống, tôm thịt, nuôi bò sữa tại Ninh Thuận (doanh số cho vay hơn 3.700 tỷ đồng)…

Cho vay nông nghiệp công nghệ cao dẫu sao cũng là một lĩnh vực cho vay mới, chắc hẳn việc triển khai cũng có những vướng mắc?

Đúng vậy, có thể kể đến khó khăn đầu tiên là về chính sách liên quan đến phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta thời gian qua còn nhiều bất cập như: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản trên đất nông nghiệp, tạo điều kiện hỗ trợ khách hàng làm thủ tục thế chấp vay ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn; tiêu chí xác định chương trình, dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch còn chung chung, chưa quy định cơ quan nào xác nhận các tiêu chí của dự án… khiến ngân hàng thiếu căn cứ để xác định cho vay.

Hay như việc quản lý sử dụng thuốc bảo vệ thực vật vẫn còn nhiều tồn tại và bất cập, trong khi kiến thức của bà con nông dân còn hạn chế, dẫn tới tình trạng lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật và thiếu an toàn. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến hàng hóa nông nghiệp nước ta không đáp ứng được các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước nhập khẩu, ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khỏe con người.

Thứ hai là câu chuyện về đất đai. Việc thiếu đất quy mô lớn, ở vị trí thuận lợi cho sản xuất và lưu thông để đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ theo vùng sản xuất tập trung cũng là một khó khăn rất lớn để phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Bên cạnh đó, quá trình tích tụ và tập trung đất đai còn chậm, chưa tạo động lực thu hút các nhà đầu tư; thủ tục thuê, chuyển nhượng đất sản xuất nông nghiệp còn nhiều thủ tục, gây phiền hà.

Thứ ba là nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Thực tế cho thấy, năng lực nội sinh lĩnh vực khoa học công nghệ trong nông nghiệp của nước ta còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất; chưa làm chủ được công nghệ chế biến sâu, các doanh nghiệp vẫn phải nhận chuyển giao công nghệ từ nước ngoài...

Thứ tư là thị trường tiêu thụ. Sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch đa phần là các sản phẩm chất lượng cao, mang tính khác biệt, giá thành thường cao hơn so với các sản phẩm nông nghiệp truyền thống khác trên thị trường nên khó tiếp cận được với đa số người tiêu dùng. Nhiều sản phẩm nông sản theo mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tiêu thụ trên thị trường còn hạn hẹp, khả năng cạnh tranh kém cả trong và ngoài nước; chuỗi giá trị nông nghiệp hiện vẫn chưa hoạt động hiệu quả; trình độ chế biến chuyên sâu của các thành phần tham gia chuỗi giá trị còn hạn chế nên giá trị gia tăng chưa cao; việc ứng dụng khoa học, công nghệ và áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc gia, quốc tế hạn chế.

Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ, là cơ sở khẳng định vị trí của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường giữa doanh nghiệp nước ngoài với doanh nghiệp trong nước, giữa hàng nội và hàng ngoại... từ khâu thu mua cho tới khâu phân phối vẫn đang diễn ra, mang lại những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế, nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng. Mặt khác, hoạt động cạnh tranh không lành mạnh ở trong nước tạo tâm lý không tốt đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi muốn đầu tư vào thị trường Việt Nam, từ đó ảnh hưởng tới thu hút đầu tư nước ngoài.

Thứ năm là tính tuân thủ của các bên khi tham gia chuỗi giá trị còn chưa cao, thiếu biện pháp xử lý để tăng tính ràng buộc.

Thứ sáu là câu chuyện bảo hiểm nông nghiệp. Lĩnh vực nông nghiệp có rủi ro lớn, nhưng thị trường bảo hiểm nông nghiệp chưa phát triển, số lượng doanh nghiệp tham gia còn hạn chế, sản phẩm bảo hiểm còn đơn điệu. Tính đến nay, không nhiều công ty bán sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp có thể kể đến như ABIC, BIC, PVI, Bảo Việt, VBI, Bảo Minh và Bảo Long.

Để phần nào giải quyết những khó khăn trên, ông có kiến nghị gì?

Để góp phần cung ứng vốn kịp thời, đầy đủ, khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Agribank kính đề xuất một số kiến nghị như sau:

Trước tiên là vấn đề về xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách. Theo đó, một là các bộ, ngành cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao như hoàn thiện các tiêu chí xác định chương trình, dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; hoàn thiện chính sách xúc tiến thương mại mở rộng thị trường, tháo gỡ rào cản thương mại để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao...

Hai là, Nhà nước cần ban hành quy định đối với việc thực hiện hợp đồng liên kết theo chuỗi giá trị trong nông nghiệp, trong đó nêu rõ chế tài đối với các bên tham gia nhằm hạn chế những rủi ro và đảm bảo sự bền vững trong liên kết của chuỗi giá trị nông sản.

Ba là, Nhà nước cần hoàn thiện quy định pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh theo hướng thống nhất các quy định giữa các văn bản và sửa đổi các quy định không còn phù hợp với tình hình thực tế hiện nay; xây dựng, ban hành Nghị định hướng dẫn Luật Cạnh tranh 2018 theo hướng đảm bảo tính hiệu quả, thực thi bằng việc bổ sung hướng dẫn một số nội dung còn thiếu...

Bốn là, Nhà nước cần ban hành quy định về bảo hiểm trong hoạt động sản xuất nông nghiệp nhằm hạn chế những tổn thất, rủi ro. Có chính sách khuyến khích phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp; cần mở rộng đối tượng, đơn giản hóa thủ tục, tạo thị trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia.

Năm là, nhằm hạn chế việc lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, trước hết cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về hậu quả của các loại hóa chất. Mặt khác, các cơ quan quản lý nhà nước cần kiểm soát tốt việc sản xuất, nhập khẩu, sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật, loại bỏ dần các loại thuốc bảo vệ thực vật độc hại, lạc hậu, khuyến khích sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học, thuốc bảo vệ thực vật thế hệ mới, thuốc bảo quản rau, quả an toàn. Khuyến khích, mở rộng việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và các chương trình IPM, ICM, chương trình canh tác lúa cải tiến, đẩy mạnh chương trình khuyến nông, sản xuất cây trồng an toàn theo quy trình VietGAP...

Sáu là, tháo gỡ đến cùng việc thế chấp tài sản của các dự án sản xuất nông nghiệp công nghệ cao để tạo điều kiện cho nông dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng ưu đãi; bố trí nguồn ngân sách thỏa đáng để thực hiện các chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nhất là nông nghiệp công nghệ cao.

Tiếp theo là giải bài toán tiếp cận vốn. Trong đó, thứ nhất, cần tăng cường đầu tư cho khu vực nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là đầu tư từ ngân sách nhà nước về cơ sở hạ tầng, ứng dụng khoa học công nghệ, các yếu tố đầu vào, trợ giá, có chính sách ưu tiên xây dựng các điểm phân phối hàng nông sản. Xem xét mở rộng đối tượng đầu tư một số dự án tài trợ ODA để đẩy nhanh tiến độ giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng số lượng khách hàng được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi.

Hai là, để thực hiện thành công, hiệu quả cao, đề nghị Chính phủ có chính sách khuyến khích việc ứng dụng công nghệ cao và có cơ chế tách bạch rõ ràng giữa tín dụng chính sách với tín dụng thương mại. Khi thực hiện nhiệm vụ chính sách, các tổ chức tín dụng cũng phải được hưởng những ưu đãi như các đơn vị thụ hưởng như: Tạo nguồn vốn cho vay, cấp bù lãi suất do thực hiện chính sách giảm lãi suất, cách tính các hệ số an toàn, chính sách thuế... nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng tích cực tham gia vào các mô hình sản xuất công nghệ cao.

Đối với câu chuyện quy hoạch đất đai, Nhà nước cần đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất (theo yêu cầu phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ và bền vững, tạo lập vùng sản xuất tập trung, chuyên môn hóa), từ đó thu hút được các nguồn lực tài chính ngoài ngân sách nhà nước (đặc biệt là khu vực tư nhân) đầu tư vào nông nghiệp, phát triển mô hình chuỗi giá trị nông nghiệp khép kín, mang tính bền vững. Nhà nước cần đơn giản thủ tục thuê, chuyển nhượng đất đai; các địa phương cần đẩy nhanh tiến độ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi dồn điền, đổi thửa; hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp và nông dân; khuyến khích nông dân góp vốn bằng ruộng đất vào doanh nghiệp...

Liên quan đến thị trường tiêu thụ, để ổn định và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, về phía các cơ sở sản xuất sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao cần xây dựng, đăng ký các nhãn hiệu, thương hiệu hàng hóa, có chứng nhận, gắn tem điện tử cho nông sản; phát triển chuỗi liên kết sản xuất, sơ chế, chế biến gắn với tiêu thụ sản phẩm để vừa phát triển sản xuất, vừa kiểm soát được nguồn gốc sản phẩm thông qua các hợp đồng liên kết. Đồng thời, các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp công nghệ cao cũng cần đầu tư để chuyển dần sang chế biến; cần coi trọng thị trường trong nước bằng cách giảm giá bán sao cho đại đa số người tiêu dùng đều có thể mua được.

Một vấn đề được thị trường quan tâm đó là Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) sẽ tác động thế nào tới nông nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam, theo ông?

Tôi cho rằng, tham gia EVFTA sẽ mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam như có thể giúp xuất khẩu của một số ngành nông nghiệp sang thị trường EU được dự báo tăng mạnh như gạo (tăng thêm 65% vào năm 2025), đường (8%), thịt lợn (4%), lâm sản (3%), thịt gia súc gia cầm (4%), đồ uống (5%)...

EVFTA cũng mở ra kỳ vọng nâng cao chất lượng đầu tư vào Việt Nam từ các đối tác có nguồn gốc là các nước phát triển do Việt Nam tăng cường mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ. Điều này sẽ tạo ra những động lực mới cho dòng vốn FDI vào Việt Nam. EVFTA là cơ hội để ngành nông nghiệp Việt Nam thúc đẩy sản xuất chất lượng để đáp ứng yêu cầu thị trường. Để làm được điều này, sản xuất trong nước phải tổ chức lại theo các chuỗi giá trị gắn kết mới hấp thụ được sự hỗ trợ từ các bên, hướng đến hiệu quả trong nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

EVFTA sẽ là cơ hội vàng, tạo ra “cú hích” mạnh mẽ cho xuất khẩu nông lâm thủy sản Việt Nam, nhất là các sản phẩm có thế mạnh như thủy sản, rau quả, gạo, cà phê, hồ tiêu.... Có thể nói, với EVFTA, tất cả bắt đầu bước vào một cuộc chơi mới, một sự khởi đầu mới đầy hứa hẹn nhưng cũng tiềm ẩn không ít thách thức mà hai bên phải khắc phục để có thể tận dụng hiệu quả “sức mạnh” EVFTA mang lại.

Bước sang giai đoạn phát triển mới, thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ chính trị tại Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2020-2025, Agribank triển khai các giải pháp như sau:

- Tiếp tục thực hiện chính sách cho vay nông nghiệp, nông thôn và các lĩnh vực ưu tiên khác theo chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước; đáp ứng nhu cầu vốn lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói chung và lĩnh vực nông nghiệp sạch, công nghệ cao nói riêng; chủ động tham gia xây dựng các chuỗi giá trị; duy trì tỷ trọng dư nợ cho vay đối với nông nghiệp, nông thôn từ 65-70% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế.

- Mở rộng quan hệ và tăng cường hợp tác chiến lược với đối tượng khách hàng là doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn; triển khai có hiệu quả các thỏa thuận đã được ký kết giữa Agribank và đối tác, khách hàng; kịp thời nắm bắt và tháo gỡ khó khăn cho khác hàng.

- Phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các bộ, ban, ngành trong cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói chung và nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao nói riêng.

Tin bài liên quan