Năm 1997, Việt
Với cam kết gia nhập WTO và phần nào giảm bớt bảo hộ nhà sản xuất trong nước, Bộ Tài chính đã giảm thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc từ 100% xuống 90% và 70%, thuế tiêu thụ đặc biệt cũng được áp dụng như nhau đối với cả xe nội và xe ngoại. Giá xe nhập khẩu ngay sau đó đã hạ xuống và tạo ra đối trọng cạnh tranh khá lớn với xe trong nước. Nhiều chuyên gia hy vọng, thuế tiếp tục giảm và không có bảo hộ sẽ khiến cho xe nhập khẩu nguyên chiếc và xe lắp ráp không chênh lệch nhiều về giá. Người tiêu dùng khi ấy chắc chắn sẽ chọn xe nhập khẩu và khi nhà sản xuất chịu sức ép thì chẳng cần thúc giục, họ sẽ tự phải nâng cao chất lượng và hạ giá thành. Số lượng phương tiện giao thông tăng lên sẽ là áp lực lớn cho các đô thị, đây có thể là một trong những nguyên nhân gây ra ùn tắc giao thông, song khi chịu sức ép như vậy đường sá mới được mở rộng và hạ tầng đô thị mới phát triển.
Nhưng quyết định tăng thuế nhập khẩu xe hơi thêm 10% mới đây khiến những hy vọng trên khó thành hiện thực, chính sách thuế thay đổi xoành xoạch đối với ngành hàng này nhưng các doanh nghiệp nhập khẩu không mấy lo ngại vì thuế tăng thì tăng giá bán xe, chỉ có người tiêu dùng chịu thiệt. Xa hơn, liệu chính sách như vậy có khuyến khích công nghiệp xe hơi vốn đã quen được bảo hộ phát triển?
Hãy nhìn bài học xe máy để thấy người tiêu dùng và cả Nhà nước được lợi như thế nào, nếu bất cứ ngành sản xuất nào cũng tạo ra môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng. Vào những năm 1997 - 1998, giá xe máy của các liên doanh tại Việt
Đơn giản vậy mà ở Việt Nam khó thực hiện làm sao, còn nhớ một cuộc họp lấy ý kiến đóng góp cho những giải pháp phát triển ngành công nghiệp ôtô cuối năm 2007 đã chuyển hướng thành nơi to tiếng giữa nhà sản xuất và nhà tạo lập chính sách. Cơ quan thuế đổ lỗi cho quy hoạch, nơi làm quy hoạch (Bộ Công thương) lại đổ lỗi cho hạ tầng, cơ quan chịu trách nhiệm về phát triển hạ tầng (Bộ Giao thông Vận tải) thì khẳng định, cơ sở hạ tầng thừa sức đáp ứng được lượng xe lưu hành hiện tại và luôn sẵn sàng ủng hộ nền công nghiệp ôtô phát triển. Nhà sản xuất lại kêu chính sách không minh bạch, không có lộ trình khiến họ như người mù dò đường. Nghe họ tranh cãi có thể dễ dàng thấy, chính sách bảo hộ của Nhà nước không làm phát triển ngành công nghiệp ôtô, người tiêu dùng bị thiệt thòi và ngay cả nhà sản xuất dù được lợi bằng sự ưu đãi của bảo hộ, nhưng họ cũng biết đây chỉ là lợi ích ngắn hạn và tranh thủ kiếm lợi, chứ không chịu đầu tư, phát triển công ty trong một thị trường nhỏ như vậy.