Lật giở lại báo ĐTCK, người viết bài này đã phỏng vấn TS. Võ Thành Tự Anh, Phó giám đốc Nghiên cứu chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright. Ông Anh đã cảnh báo "Cơ hội lớn nhanh song hành với nguy cơ thất bại nhanh của các doanh nghiệp Việt
Một yếu tố rủi ro, hiện chưa thấy rõ ràng nhưng phải tính đến là ảnh hưởng từ những biến động của thị trường thế giới sẽ ngày càng sâu sắc đến Việt
Thời điểm tháng 9/2007, các doanh nghiệp vẫn còn say sưa với các hợp đồng đầu tư tài chính chéo dưới danh nghĩa đầu tư chiến lược và thành lập các công ty con hoạt động trong lĩnh vực bất động sản, ngân hàng… Khi đó, những người trong cuộc rất lạc quan về thị trường, vì cuộc khủng hoảng thị trường cho vay cầm cố thế chấp của Mỹ còn xa vời, dường như chưa có dấu hiệu gì liên quan đến Việt Nam.
Chỉ cho đến khi nhìn thấy một trào lưu suy thoái kinh tế ập đến, người ta mới nhận thấy những nguy cơ được cảnh báo đang phát tác ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Thật ra, ông Anh không phải là người đầu tiên cảnh báo về nguy cơ này, nhưng dường như tại thời điểm đó, ông đã đủ thông tin để dự đoán được tình hình kinh tế hiện nay. Phóng viên ĐTCK trong nhiều năm tác nghiệp đã dự nhiều hội thảo lớn tại Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế trung ương, cơ quan trực tiếp soạn thảo Luật Doanh nghiệp nhà nước và các nghị định liên quan và cũng đã nhiều lần nghe những lời cảnh báo về nguy cơ đầu tư không hiệu quả của các DNNN trong các lĩnh vực trái tay, việc hình thành nhiều tập đoàn kinh tế một cách khiên cưỡng với hoạt động đa ngành nghề thiếu kiểm soát.
Tất cả nguy cơ rủi ro đến nay mới bộc lộ rõ ràng khi khủng hoảng từ bên ngoài ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt
Nhưng nếu nhìn trên quan điểm tích cực, nhà đầu tư có thể thấy rằng, một cú sốc từ bên ngoài đang buộc các doanh nghiệp nhận ra những nhược điểm của mình và quan trọng hơn là Chính phủ đã có những biện pháp lấp lại những tổ mối trong nội bộ DNNN.
Nếu cú sốc này đến muộn hơn, sau vài ba năm nữa thì e rằng hậu quả của phong trào đầu tư bất động sản, tài chính, ngân hàng, xa rời ngành nghề kinh doanh cốt lõi của các doanh nghiệp trọng yếu còn nặng nề hơn nhiều. Giá cổ phiếu của doanh nghiệp dưới mác điện lực, viễn thông, đóng tàu, dầu khí không chỉ giảm 30 - 50% như hiện nay mà còn có thể là cổ phiếu không có giá trị. Không loại trừ khả năng sẽ xuất hiện các vụ Enron ở Việt Nam bởi cho đến nay tình hình tài chính, hiệu quả đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn vẫn là một ẩn số với công chúng. Có lẽ một cú sốc đến vào thời điểm này là cần thiết cho các doanh nghiệp lớn.
Còn với các nhà đầu tư, tuy mất tiền nhưng vẫn còn may mắn bởi không chỉ DNNN đang buộc phải chấn chỉnh, mà các công ty đại chúng đều đang tìm cách để đi cho đúng đường khi điều chỉnh chiến lược phát triển tập trung vào ngành nghề kinh doanh cốt lõi. Cơ hội sửa sai vẫn còn. Tất cả vẫn chưa muộn.
Ông Lê Đăng Doanh, Chuyên gia kinh tế cao cấp
Đã có lỗ hổng trong việc kiểm soát dòng tiền của các DNNN. Tôi biết ở
Với tình hình hiện nay, tôi cho rằng việc khống chế 30% vốn đầu tư ngoài ngành nghề cơ bản chỉ là bước đầu. Bước tiếp theo phải xây dựng các tiêu chí khung pháp lý để giám sát hiệu quả của DNNN. Phó thủ tướng Trung Quốc phụ trách công nghiệp cho chúng tôi biết, họ đặt ra các chỉ tiêu tăng trưởng với tập đoàn nhà nước và yêu cầu lãnh đạo tập đoàn phải báo cáo bao nhiêu phần trăm là từ tăng năng suất, cải tiến kỹ thuật, đầu tư… Ở ta cũng phải có giám sát chặt chẽ và báo cáo hàng năm của các tập đoàn lớn phải được kiểm toán minh bạch công khai. Như thế mới có thể đánh giá được hiệu quả đầu tư của các tập đoàn.
Ông Vũ Thành Tự Anh, Phó giám đốc Nghiên cứu chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Cho đến thời điểm này, việc khống chế tỷ lệ nhất định cho hoạt động đầu tư ra bên ngoài của DNNN là rất cần thiết nhưng tôi vẫn chưa rõ là 30% tính trên vốn hay tổng tài sản của DNNN. Chính sách này cần được quy định cụ thể hoá. Với những doanh nghiệp đã lỡ đầu tư vào bất động sản thì giải quyết như thế nào? Nếu không giải quyết thì đi ngược lại với chỉ thị từ trước đến nay, bởi để thay đổi một phân số thay vì giảm tử số, người ta có thể tăng mẫu số. Như vậy, vẫn có cách để không vi phạm về tỷ lệ nhưng đầu tư ra ngoài ngành nghề cơ bản vẫn tăng.
Chúng tôi từ lâu đã đề nghị thành lập một hội đồng đầu tư độc lập để đánh giá dự án của DNNN, song dường như khó thực hiện vì khó có thể có một hội đồng độc lập khi các tập đoàn rất mạnh về thế và lực. Nhưng cần thiết phải có cơ chế để đánh giá hiệu quả dự án của các DNNN.
Bà Phạm Chi Lan, Chuyên gia kinh tế cao cấp
Đưa ra hạn mức đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính 30% là cần thiết và tốt hơn so với trước đây thả nổi hoạt động mở rộng đầu tư của DNNN. Các DNNN xa rời ngành nghề đầu tư cơ bản là nguy cơ lớn với nền kinh tế. Với những ngành như ngành điện có ảnh hưởng đến nhiều ngành khác thì cần yêu cầu tập trung vốn cao hơn đến 90% cho đầu tư vào ngành điện. Ngay cả khi trong khuôn khổ 70/30 thì vẫn cần có sự kiểm soát hiệu quả của từng dự án chứ cũng không nên thả nổi. Ví dụ, ngành đóng tàu có nên mở quá nhiều xưởng đóng tàu ở các địa phương không khi các dự án của ngành này đòi hỏi về quy mô lớn mới có hiệu quả kinh tế. Khi đầu tư ra bên ngoài, các tổng công ty lớn cũng không nên đầu tư vào những ngành mà khối dân doanh đã làm tốt. Tỷ lệ 30% vốn của một công ty thì nhỏ nhưng 30% vốn các tổng công ty nhà nước thì rất lớn, vì các đơn vị này nắm giữ một nguồn vốn lớn của quốc gia. Nếu ngành nghề nào Nhà nước cũng đầu tư thì lãng phí nguồn lực mà ảnh hưởng đến khu vực kinh tế khác. Ngay trong lĩnh vực bất động sản, cần rà soát, chỗ nào DNNN lỡ đầu tư rồi thì tính lại giá thuê đất theo giá thị trường. Cần tổng rà soát đất của DNNN để xem khu đất nào sử dụng không phục vụ cho ngành nghề cốt lõi thì thu hồi để đấu giá, thu tiền về ngân sách để đầu tư lại cho các ngành sản xuất cơ bản. Không để đất dư thừa rồi DNNN đầu tư trái ngành để khai thác thu lợi.