Hiện có một số quan điểm cho rằng, việc tăng tỷ lệ sở hữu của đối tác nước ngoài tại các ngân hàng trong nước là một trong những biện pháp hữu hiệu để tái cấu trúc các tổ chức tín dụng. Ông đánh giá thế nào về quan điểm này? Liệu sự tham gia sâu hơn của phía nước ngoài có thể giúp các ngân hàng Việt
Tôi cho rằng, không chỉ trong giai đoạn tái cấu trúc, việc tăng tỷ lệ sở hữu của nước ngoài tại các ngân hàng trong nước có thể giúp các đơn vị này nói riêng và cả hệ thống nói chung tăng tiềm lực về vốn, cũng như hợp tác kinh doanh ở tầm quốc tế. Sự tham gia ấy còn có thể giúp cải thiện khả năng quản trị của ngân hàng nội, hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang các chuẩn mực ngân hàng quốc tế như về trích lập dự phòng và hạch toán kế toán, nhờ đó các đơn vị này có thể nâng cao trách nhiệm giải trình và tính minh bạch.
Những lợi ích trước mắt và lâu dài đã được ông chỉ ra, nhưng theo ông, nếu cho phép một tỷ lệ sở hữu nước ngoài lớn hơn thì mức bao nhiêu là thích hợp?
Chính phủ Việt
Liệu có thể đặt vấn đề ngược lại là Việt Nam có thể tái cấu trúc hệ thống ngân hàng mà không cần phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài, thưa ông?
Theo tôi, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là một quá trình đòi hỏi cả thời gian và tốn kém nguồn lực vật chất. Nguồn vốn cho hoạt động tái cơ cấu có thể từ trong nước hay nước ngoài. Nếu đến từ các nguồn trong nước, thì có thể đến từ khu vực tư nhân hoặc Chính phủ. Tuy nhiên, hiện tại, điều kiện thị trường cả trong và ngoài nước đều không thuận lợi cho thu hút đầu tư vào hệ thống ngân hàng. Do phạm vi và tính phức tạp của quá trình tái cấu trúc, Chính phủ nên xem xét khai thác tất cả các lựa chọn, chứ không chỉ từ các nguồn lực trong nước. Bên cạnh nguồn lực vốn, những lợi ích từ việc chuyển giao kinh nghiệm quốc tế từ các đối tác ngoại cũng là điều cần tính đến.
Theo ông, nếu cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu tỷ lệ lớn hơn thì những rủi ro mà hệ thống ngân hàng Việt
Theo tôi, chỉ có một hạn chế là môi trường kinh doanh không thuận lợi hiện nay khiến tài sản của các ngân hàng có thể phải bán với giá rẻ hơn mức trung bình.
Trên thực tế, ADB đã có những động thái gì trong việc trợ giúp cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam, thưa ông?
Tái cấu trúc hệ thống tài chính là một nhiệm vụ dài hạn và phức tạp. Các cải cách phải được tiến hành ở mọi cấu phần của khu vực tài chính, bao gồm cải cách DNNN, thị trường vốn và lĩnh vực ngân hàng. Thông qua các chương trình cho vay và hỗ trợ kỹ thuật, ADB đã và đang hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong giải quyết các nút cổ chai của hạ tầng khu vực tài chính, tăng cường khả năng thể chế, luật pháp và khung khổ điều tiết.
Nói về những tham gia cụ thể của ADB, hiện chúng tôi đang triển khai hỗ trợ kỹ thuật để giúp Chính phủ thiết kế ra một chương trình cải tổ khu vực tài chính. Các cải cách trong chương trình này sẽ được triển khai theo quan điểm rằng, việc cơ cấu lại thị trường tiền tệ là điểm nút nhằm giải quyết các mất cân bằng kinh tế vĩ mô. Chương trình này cũng hỗ trợ cho Chính phủ trong việc tăng tiềm lực của thị trường vốn thông qua thị trường trái phiếu chính phủ, cũng như hỗ trợ xây dựng khả năng cho các cơ quan điều tiết và giám sát ở khu vực này.