Trang 10 bản cáo bạch công bố kết quả các đợt tăng vốn của Điện Quang từ năm 2005 đến tháng 11/2007 như sau: (xem bảng 1).
Bảng 1: Kết quả tăng vốn của Điện Quang (đơn vị: tỷ đồng)
STT |
Thời điểm tăng vốn |
Vốn điều lệ |
1 |
2/2005 |
23,50 |
2 |
1/2007 |
51,70 |
3 |
3/2007 |
63,17 |
4 |
9/2007 |
80,00 |
5 |
11/2007 |
157,17 |
Cũng theo bản cáo bạch, lợi nhuận sau thuế phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông của Điện Quang năm 2006 là 54,104 tỷ đồng; tương ứng EPS là 10.448 đồng.
Nếu tính theo khối lượng cổ phiếu lưu hành bình quân thì năm 2006 vốn điều lệ của Điện Quang không thay đổi vì thời điểm Công ty chia cổ tức năm 2006 bằng cổ phiếu theo tỷ lệ 1:1,2 (tức 20%) là tháng 1/2007. Do đó, khối lượng cổ phiếu lưu hành trong năm 2006 vẫn là 2,35 triệu cổ phiếu nên EPS năm 2006 sẽ là 22.985 đồng (54,014 tỷ đồng lợi nhuận năm 2006 chia cho 2,35 triệu cổ phiếu), chứ không phải là 10.448 đồng như trong bản cáo bạch của Điện Quang.
Còn EPS năm 2007, Điện Quang công bố trong bản cáo bạch là 13.068 đồng (tính theo số lượng cổ phiếu lưu hành cuối năm) nhưng tính theo khối lượng cổ phiếu lưu hành bình quân thì EPS là 26.543 đồng.
Nhà đầu tư đã phản ánh với Điện Quang về việc này và trong thông cáo báo chí gửi các báo về việc niêm yết cổ phiếu, Điện Quang đã đưa ra bảng số liệu và chú thích rõ như sau (xem bảng 2):
Bảng 2: Một số chỉ tiêu tài chính của Điện Quang (đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
|
Thực hiện 2007 (*)
|
Kế hoạch 2008 (**)
|
Doanh thu thuần
|
1.110
|
1.270
|
Lãi gộp
|
346
|
410
|
Lợi nhuận
|
205
|
222
|
Thu nhập mỗi cổ phiếu (***)
|
13.082
|
14.125
|
(*) Số liệu theo BCTC năm 2007 chưa hợp nhất.
(**) Kế hoạch 2008 (có điều chỉnh so với bản cáo bạch) căn cứ theo tình hình thực hiện năm 2007.
(***) Thu nhập mỗi cổ phiếu tính theo số lượng cổ phiếu đang lưu hành tại thời điểm 31/12/2007. Năm 2007, nếu tính thu nhập mỗi cổ phiếu theo số lượng cổ phiếu lưu hành bình quân thì EPS là 26.543 đồng.
Trong tài liệu gửi kèm bản cáo bạch của Điện Quang, trang 150 phần báo cáo tài chính hợp nhất, mục tính “Lãi cơ bản trên cổ phiếu” có sai sót. Cụ thể, EPS năm 2005 và 2006 cùng được tính trên cổ phiếu phổ thông đang lưu hành bình quân trong kỳ là 5.169.720 trong khi trong cả hai năm đó số cổ phiếu phổ thông đang lưu hành bình quân trong kỳ chỉ là 2,35 triệu. |
Trao đổi với ĐTCK về vấn đề này, bà Nguyễn Thị Anh Đào, Trưởng phòng Quản lý niêm yết, Sở GDCK TP. HCM cho biết, những doanh nghiệp sau khi niêm yết sẽ tính EPS theo số lượng bình quân gia quyền của cố phiếu lưu hành trong năm và Sở cũng công bố EPS dựa theo cách tính này. Với doanh nghiệp chưa niêm yết hoặc chuẩn bị niêm yết, Sở chỉ kiểm tra tính chính xác của EPS trong bản cáo bạch dựa theo cách tính (bình quân hoặc cuối kỳ) chứ không đòi hỏi phải thực hiện theo cách tính nào. Hơn nữa, với thực tế của Việt
Rõ ràng, việc không thống nhất trong cách tính EPS có thể gây ra nhầm lẫn trong quyết định của nhà đầu tư. Và nếu như được so sánh một cách tréo ngoe kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia” thì ở một chừng mực nhất định, có thể ảnh hưởng tới quyền lợi của cả doanh nghiệp và nhà đầu tư.