Bản báo cáo này được thực hiện bởi Khối Phân tích và Tư vấn đầu tư thuộc SSI, dành cho cộng đồng nhà đầu tư trong và ngoài nước, với hy vọng sẽ trở thành một kênh thông tin thường xuyên về TTCK Việt Nam bên cạnh kênh thông tin từ các tổ chức tài chính quốc tế, như Merrill Lynch, Goldman Sachs, World Bank…
Điểm tạo nên giá trị riêng cho Bản báo cáo là đưa ra nghiên cứu dựa trên "Câu chuyện về sự tăng trưởng", chứ không chỉ phân tích đơn thuần theo tiêu chí P/E khi nhận định về bức tranh chung của TTCK. Theo đó, một trong những kết quả nghiên cứu được mô phỏng như sau: viễn cảnh năm 2007 của 20 công ty có vốn hoá lớn nhất TTCK là hấp dẫn khi mức độ tăng doanh thu trung bình đạt 58,32%, cao hơn mức trung bình trong 3 năm gần đây của 50 công ty lớn nhất thuộc S&P 500.
Để giúp bạn đọc tiếp cận chi tiết với báo cáo này, ĐTCK-online xin giới thiệu những nét chính như sau:
Diễn biến của VN-Index và nguyên nhân của sự điều chỉnh
Năm 2006, chỉ số VN-Index đã tăng 146% và trong 3 tháng đầu năm 2007, chỉ số này tiếp tục tăng thêm 46%, đạt đỉnh cao 1.170 điểm vào ngày 12/3. Xu hướng đi lên này được thể hiện rõ trong Biểu đồ 1 - biểu đồ VN-Index từ tháng 8/2006 đến tháng 5/2007.
Biểu đồ 1: VN-Index từ tháng 8/2006 đến tháng 5/2007
Biến động của VN-Index trong thời gian này có thể được chia thành 3 giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị bứt phá do ảnh hưởng của sự kiện Việt
Sau 3 tháng chỉ số VN-Index tăng mạnh, đến tháng 3/2007 một đợt điều chỉnh đã xảy ra theo đúng quy luật cũng như dự báo của nhiều người. Một vài sự kiện như sự sụt giảm của TTCK Trung Quốc và một số nước, nhận định của nhiều chuyên gia về "độ nóng" của thị trường Việt Nam… là những cú hích để thị trường bước vào đợt điều chỉnh.
Trước giai đoạn điều chỉnh, nhiều chuyên gia và cơ quản quản lý đã bày tỏ mối lo ngại rằng, giá cổ phiếu đang quá cao so với giá trị thật. Nếu xét theo chỉ số P/E, nhận định này hoàn toàn có lý. Chỉ số P/E trung bình của 20 công ty có vốn hóa lớn nhất vào ngày 12/3/2007 - ngày mà VN-Index đạt mức cao nhất - tại cả sàn Hà Nội và TP. HCM là 54,98 lần. Hơn 2 tuần sau đó, quan sát tại các thị trường châu Á khác cho thấy, chỉ số P/E là dưới 20 lần. Thêm một nguyên nhân khác khiến cho thị trường đi xuống là sự tăng mạnh lượng cung từ các IPO trong đầu năm 2007. Theo thống kê, lượng cổ phiếu đưa ra trong 4 tháng đầu năm nay đã tương đương với lượng được đưa ra trong cả năm 2006. Xét về giá trị, nếu thống kê tất cả những IPO lớn giai đoạn đầu năm 2007, các nhà đầu tư cần chi ra 21.000 tỷ đồng (1,3 tỷ USD), gấp 4 lần mức họ bỏ ra trong các đợt IPO năm 2006. Nhu cầu đối với các cổ phiếu niêm yết, do đó, tất yếu sẽ bị giảm đi, đặc biệt sau khi những ảnh hưởng của thông tin về kết quả ấn tượng cuối năm 2006 cũng như những quyết định tách và thưởng cổ phiếu công bố đầu năm 2007 đã mờ nhạt. Ngoài ra, những quyết định của Chính phủ cũng đã phần nào ảnh hưởng đến thị trường trong ngắn hạn, như việc quản lý dòng tiền từ các ngân hàng đến các công ty chứng khoán để cho vay phục vụ hoạt động mua bán chứng khoán…
Trong giai đoạn điều chỉnh, khi VN-Index xuống tới 905 điểm vào ngày 24/4, chỉ số P/E trung bình khi đó là 41,8 lần, vẫn cao hơn các nước trong khu vực (Trung Quốc 18,6 lần; Singapore 18,5 lần; Thái Lan 11,1 lần…). Tuy nhiên, khi cân nhắc đến các chỉ số khác của các công ty hàng đầu tại TTCK Việt Nam sẽ thấy, các cổ phiếu dẫn đầu thị trường đã điều chỉnh trở về mức giá đáng để các nhà đầu tư cân nhắc và do đó, xu hướng giảm giá không thể kéo dài. Nhân tố chính ngăn VN-Index không tiếp tục giảm xuống dưới mức 905 điểm chính là những con số thuyết phục về tài chính và tiềm năng tăng trưởng của bản thân các công ty.
Câu chuyện về sự tăng trưởng
Ngoài những yếu tố tích cực về môi trường chính trị, khung pháp lý và môi trường kinh tế, tốc độ tăng trưởng của các công ty niêm yết là một điểm nhấn có ảnh hưởng quan trọng đến tương lai của TTCK Việt
Tuy nhiên, xem xét về mặt tăng trưởng doanh thu, tăng trưởng lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu, chúng ta sẽ thấy một bức tranh tốt đẹp hơn rất nhiều. Mức trung bình cộng của cả tỷ lệ tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận đều trên 56% so với năm 2006, trong khi tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu năm trong 2007 dự đoán vẫn cao, ở mức 26,02%. Hai dấu hiệu có vẻ đối nghịch nhau (EPS giảm, tăng trưởng cao) này được lý giải như sau: 20 công ty vốn hóa lớn nhất TTCK Việt
Bảng 2: Các chỉ số tài chính của 20 cổ phiếu Bluechips
Tăng trưởng EPS
Tăng trưởng doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu
2006
2007E
2006
2007E
2006
2007E
FPT
59,00%
50,00%
52,00%
25%
2,85%
3,00%
VNM
21,09%
9,98%
17,39%
8,08%
11,05%
11,22%
STB
18,05%
3,10%
69,90%
96,30%
22,60%
25,30%
ACB
45,63%
6,75%
92,74%
118,24%
16,91%
19,78%
PPC
na
-37,81%
147,25%
-5,88%
22,57%
14,75%
PVD
100,00%
164,00%
26,00%
17,00%
9,00%
25,00%
SSI
88,30%
5,60%
853,20%
202,10%
63,60%
69,60%
REE
227,83%
-16.55%
112,76%
21,34%
26,99%
30,00%
VSH
203,91%
-19,37%
105,86%
-1,74%
66,03%
54,18%
SAM
51,10%
35,96%
97,81%
72,23%
12,32%
11,98%
BMI
18,18%
9,18%
47,18%
67,10%
10,62%
6,94%
ITA
36,00%
-33,00%
-16,00%
4,00%
52,73%
33,97%
SJS
-19,82%
-77%
0,73%
59,20%
37,50%
43,26%
GMD
-25,00%
-13,00%
10,00%
10,00%
13,90%
14,40%
KDC
47,00%
7,00%
25,00%
30,20%
17,10%
20,00%
BVS
233,20%
21,10%
301,40%
247,00%
56,10%
62,00%
BTS
na
-51,60%
-5,00%
9,60%
9,90%
9,80%
TDH
100,66%
32,98%
-41,82%
127,51%
46,88%
35,28%
VIP
262,00%
-18,50%
28,00%
39,20%
11,98%
12,00%
BMP
12,20%
-4,10%
19%
20%
17,00%
18%
Trung bình
82,15%
4,72%
97,17%
58,32%
26,38%
26,02%
Trung bình (loại trừ SSI & BVS)
72,9%
3,81%
46,63%
40,83%
22,86%
21,84%
Tỷ suất lợi nhận trên vốn chủ sở hữu ROE
Tăng trưởng lợi nhuận
Tăng trưởng Vốn CSH
Tăng trưởng tài sản
Tý suất cổ tức trên giá
2006
2007E
2006
2007E
2006
2006
2006
FPT
34,20%
33,90%
78,00%
50,00%
259,00%
53,63%
na
VNM
26,75%
20,10%
20,83%
9,46%
22,00%
-7,39%
1,08%
STB
16,38%
16,85%
97,18%
119,51%
52,06%
71,41%
na
ACB
45,90%
49,05%
68,93%
155,23%
28,89%
83,93%
0,48%
PPC
26,49%
16,47%
10.771%
-37,81%
19,00%
28,39%
3,38%
15,00%
na
100,00%
67,00%
7,00%
32,00%
na
SSI
20,40%
27,60%
854,6%
230,50%
1514,34%
900,57%
1,15%
REE
43,39%
Na
227,83%
34,87%
65,14%
60,04%
0,56%
VSH
20,23%
16,29%
203,93%
-7,56%
19,01%
-2,07%
2,24%
SAM
27,62%
Na
97,49%
67,53%
32,81%
94,50%
0,82%
18,13%
Na
18,18%
9,18%
8,76%
-4,58%
0,83%
ITA
27,90%
15,00%
34,13%
-32,84%
38,10%
22,80%
1,06%
SJS
25,80%
Na
-19,82%
83,66%
38,40%
24,54%
0,56%
GMD
27,00%
Na
24,90%
13,92%
10,00%
36,00%
0,75%
KDC
29,20%
11,00%
72,10%
40,60%
16,87%
18,87%
1,14%
BVS
12,10%
21,10%
407,80%
177,10%
660,37%
331,57%
0,63%
BTS
9,60%
7,10%
42,50%
7,60%
-8,00%
3,40%
1,66%
TDH
17,10%
16,20%
100,66%
76,00%
147,80%
39,19%
0,62%
22,60%
Na
261,57%
39,24%
27,00%
-4,00%
1,46%
BMP
22,50%
23,50%
20,10%
28,00%
104,00%
55,00%
1,11%
Trung bình
24,41%
675,01%
56,56%
153,13%
91,81%
Trung bình (loại trừ SSI & BVS)
678,86%
40,2%
Nguồn: SSI (*) Các số liệu năm 2007 lấy trong những nghị quyết của đại hội đồng cổ đông; số liệu năm 2006 trích từ bản báo cáo tài chính đã được kiểm toán - trừ VIP Bảng 2 cho thấy một bức tranh phát triển vững chắc xét trên 3 góc độ: tỷ lệ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận sau thuế. Doanh thu của 20 công ty trong năm 2007 dự kiến sẽ tăng trung bình 58,32%. Các công ty trong lĩnh vực ngân hàng (STB và ACB) và chứng khoán (SSI và BVS) dự kiến phát triển mạnh nhất với mức tăng trưởng doanh thu tương ứng là 96,3%, 118,24%, 202,1% và 247%. Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận trong năm 2007 trong 2 trường hợp: có và không có 2 công ty chứng khoán, gần đạt mức tăng trưởng của doanh thu, tương ứng 56,56% và 40,2%. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế vẫn hấp dẫn mặc dù giảm nhẹ gần 1% (có thể do nguyên nhân chính là từ những tác động của chi phí đầu vào cao hơn trong năm 2007).
Kết luận
Ba kết luận chính về sự tăng trưởng của 20 công ty hàng đầu gồm:
+ Tỷ lệ tăng trưởng năm 2007 mặc dù chậm hơn 2006, nhưng vẫn rất tốt và không có sự khác biệt nhiều về tăng trưởng của năm 2007 so với 2006.
+ Tốc độ tăng trưởng trong năm 2007 của 20 công ty có vốn hoá lớn nhất là rất hấp dẫn ngay cả khi so sánh với 50 công ty lớn nhất của S&P 500 (tốc độ tăng trưởng trong 3 năm gần nhất của 50 công ty này đạt 24,82% và tỷ suất lợi nhuận trước thuế giữ ở mức 43,6% - Tạp chí Business Week). Việc so sánh cho thấy rằng, 20 công ty tại Việt Nam hơn hẳn 50 công ty lớn nhất này xét về tốc độ tăng trưởng doanh thu và không kém là bao khi nhìn về tỷ suất lợi nhuận.
+ Một số công ty đã tăng trưởng cao trong quá khứ nay lại đang có xu hướng đa dạng hóa tham gia vào hoạt động kinh doanh bất động sản và tài chính, 2 trong số những ngành đang tăng trưởng và đem lại lợi nhuận nhiều nhất của nền kinh tế Việt Nam.
Đây là lần đầu tiên một báo cáo đưa ra cách nhìn nhận TTCK Việt Nam của người trong cuộc được chuẩn bị bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt để gửi cho các nhà đầu tư, bởi từ trước đến nay, các thành viên thị trường mới chỉ được tiếp cận với một số báo cáo của các tổ chức tài chính quốc tế. Những phản hồi ban đầu, nhất là từ các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài, cho thấy, Bản báo cáo được nhà đầu tư rất quan tâm và đánh giá cao, những thông tin cung cấp trong báo cáo rất hữu ích cho nhà đầu tư đánh giá tiềm năng của TTCK Việt Nam.
Ông Nguyễn Duy Hưng, Chủ tịch SSI cho biết, Bản báo cáo của Khối Phân tích và Tư vấn đầu tư được thực hiện một cách độc lập, nhằm giúp người đọc hình dung về bức tranh chung của thị trường. Với việc chọn lựa phân tích 20 công ty có mức vốn hoá lớn nhất, SSI không nhằm khuyên nên đầu tư vào những công ty này, mà chỉ căn cứ trên tiêu chí vốn hoá thị trường lớn nhất (chiếm 80% tổng vốn hoá của cả sàn Hà Nội và TP. HCM) để phân tích về bản chất tăng trưởng của TTCK. Sau báo cáo này, SSI đang thực hiện một số sản phẩm phân tích khác về TTCK Việt Nam để giới thiệu cho các nhóm đầu tư chuyên biệt tại thị trường Nhật Bản, Mỹ và Hàn Quốc.